Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là một tội danh được pháp luật hình sự quy định. Các cá nhân có hành vi vi phạm này sẽ bị xử lý nghiêm minh và thích đáng theo các quy định pháp luật. Tuy nhiên không phải ai cũng nắm rõ về các chế tài xử lý này. Xung quanh chủ đề trên, chúng tôi sẽ đề cập tới một vụ việc có liên quan và đang nhận được sự quan tâm của dư luận những ngày qua.
Tóm tắt vụ việc:
Bà Nguyễn Thị Ngọc Ánh, 40 tuổi; Chủ tịch xã Khai Sơn (huyện Anh Sơn) cùng thuộc cấp bị cáo buộc có sai phạm khi chi trả tiền hỗ trợ thiệt hại thiên tai.
Ngày 18/10, bà Ánh bị Công an huyện Anh Sơn khởi tố bị can; tạm giam 3 tháng về tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Theo UBND huyện Anh Sơn, tháng 9 vừa qua trong quá trình thanh tra đột xuất về công tác quản lý; sử dụng nguồn kinh phí hỗ trợ khắc phục bão lụt năm 2020 tại xã Khai Sơn; nhà chức trách đã phát hiện một số sai phạm. Một số hộ chưa nhận hết tiền theo danh sách đã được lập trước đó. Toàn bộ hồ sơ đã bị niêm phong để phục vụ điều tra.
Vậy hành vi vi phạm này trên sẽ bị xử lý ra sao? Hãy cùng Luật Sư 247 tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Căn cứ pháp lý
Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017
Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là gì?
Đây là hành vi không thực hiện; hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao của người có chức vụ; quyền hạn và gây ra hậu quả nghiêm trọng cho lợi ích nhà nước, tập thể, công dân. Hay còn được hiều là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn không thực hiện; hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng. Nhiều người hay nhầm lẫn vi phạm này với vi phạm lợi dụng chức vụ quyền hạn.
Ngoài ra, hành vi này cũng được quy định tại Điều 360 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 (Bộ luật Hình sự) như sau:
Người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện; hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp được điều luật quy định thì sẽ bị xử lý hình sự.
Thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng?
Bộ luật Hình sự hiện nay chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra; tham khảo quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP thì có thể coi hậu quả nghiêm trọng bao gồm:
– Làm chết một người;
– Gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
– Gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
– Gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%;
– Gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31 % đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;
– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
Đối với các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng; hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 2, Khoản 3 Điều 360.
Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP để hướng dẫn một số quy định tại Bộ luật Hình sự 1999 đã hết hiệu lực; do đó, Thông tư này hiện nay chỉ còn giá trị tham khảo.
Cấu thành tội phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm như sau:
Chủ thể của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
Quy định của pháp luật về chủ thể
Chủ thể của tội này theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự là các cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt đến độ tuổi luật định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173; 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
Nhận định
Như vậy, đối với tội này; cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi vi phạm. Tuy nhiên, không phải bất kỳ cá nhân nào đáp ứng được các điều kiện quy định tại Điều 12 đều có thể là chủ thể của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Theo quy định tại Bộ luật Hình sự, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng thuộc phần các tội phạm về chức vụ. Do đó, chủ thể của tội này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ; quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Đây là yếu tố đầu tiên cần phải xác định khi định tội đối với hành vi phạm tội. Tuy nhiên, mặc dù chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt; nhưng trong vụ án có đồng phạm, chủ thể đặc biệt chỉ yêu cầu đối với người thực hành; những người đồng phạm khác không bắt buộc phải là người có chức vụ, quyền hạn.
Khách thể của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
Khách thể của tội này là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng làm cho cơ quan; tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; gây thất thoát, lãng phí nghiêm trọng đến tài sản của cơ quan, tổ chức.
Mặt khách quan của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
a. Hành vi khách quan
Có thể nói đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là thiếu trách nhiệm. Theo đó tùy thuộc vào công việc, nhiệm vụ được giao; hoàn cảnh cụ thể mà hành vi thiếu trách nhiệm sẽ có những biểu hiện khác nhau như vi phạm các nguyên tắc bắt buộc; không thực hiện đầy đủ quy trình,…
Thiếu trách nhiệm theo quy định tại Điều 360 được hiểu là không làm; hoặc làm không hết trách nhiệm được giao dẫn đến gây ra hậu quả mà nhẽ ra nếu làm tròn trách nhiệm đối với công việc đó thì không thể gây ra hậu quả.
b. Hậu quả
Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm đối với tội này. Theo đó người phạm tội vì thiếu trách nhiệm mà gây ra hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm của con người; những thiệt hại về tài sản; uy tín của cơ quan, tổ chức và những thiệt hại phi vật chất khác. Tuy nhiên, đối với tội này; trách nhiệm của người phạm tội là trách nhiệm gián tiếp đối với hậu quả xảy ra; nghĩa là hành vi thiếu trách nhiệm không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả.
Mặt chủ quan của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được thực hiện do vô ý. Vô ý theo quy định tại Điều 11 Bộ luật Hình sự bao gồm:
– Vô ý vì quá tự tin:
Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra; hoặc có thể ngăn ngừa được.
– Vô ý do cẩu thả:
Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội; mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Người phạm tội này đều có thể phạm tội trong cả hai trường hợp vô ý trên tùy thuộc vào tính chất công việc; chức vụ, quyền hạn của họ. Tuy nhiên, khi xác định lỗi không bắt buộc phải xác định người đó phạm tội do vô ý vì quá tự tin hay vô ý do cẩu thả.
Đối với tội này thì động cơ phạm tội không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm. Khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội này; nếu xác định động cơ phạm tội thì việc xác định này cũng chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt chứ không có ý nghĩa định tội.
Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng bị xử phạt bao nhiêu năm tù?
Các cá nhân mà có hành vi vi phạm này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
Theo điều 360, Bộ luật hình sự 2017 quy định các khung hình phạt về tội này như sau:
Khung 1
Người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện; hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp sau đây; nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 179, 308 và 376 của Bộ luật này; thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Khung 2
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Làm chết 02 người;
b) Gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
Khung 3
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích; hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
Hình phạt bổ sung
Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ; cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm
Như vậy, đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trong thì mức phạt tù cao nhất lên đến 12 năm.
Mời bạn xem thêm bài viết:
Xúc phạm chân dung lãnh tụ bị phạt tù bao nhiêu năm?
Đưa người xuất cảnh trái phép bị phạt bao nhiêu năm tù?
Mua bán phụ nữ bị xử phạt bao nhiêu năm tù theo quy định pháp luật?
Trên đây là tư vấn của Luật sư 247 về “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng bị xử phạt bao nhiêu năm tù?“. Nếu có thắc mắc gì thì xin vui lòng liên hệ: 0833102102
Câu hỏi thường gặp
Người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm:
1. Cảnh cáo.
2. Phạt tiền.
3. Cải tạo không giam giữ.
4. Tù có thời hạn.
Điều 104, BLHS 2015 quy định:
Việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước hoặc sau khi có bản án này, được thực hiện theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Bộ luật này.
Hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 103 của Bộ luật này.
Phạm nhiều tội là trường hợp người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội độc lập; hoặc chỉ có một hành vi phạm tội và hành vi đã thực hiện đó thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm khác nhau.