Hiện nay, khi thời kì tăng trưởng kinh tế tài chính xã hội, nhà nước ta đã có nhiều chủ trương góp vốn đầu tư để tăng trưởng giao thông vận tải, cầu đường giao thông. Đường xá, cầu và cống được xác định là những khu công trình công cộng, do nhà nước thiết kế. Tuy nhiên, không phải tất cả các đường đều là do nhà nước mở. Hiện nay ở nước ta tồn tại một loại đường gọi là đường tự mở không thuộc quy hoạch nhà nước. Vậy Quy định về đường tự mở như thế nào? Hướng giải quyết tranh chấp về đường tự mở ra sao? Người dân làm thủ tục xin mở đường cần chuẩn bị gì? Bài viết sau đây của Luật sư 247 sẽ giúp bạn giải đáp những thắc mắc trên và cung cấp những quy định liên quan đến vấn đề này. Hi vọng bài viết mang lại nhiều điều bổ ích đến bạn đọc nhé.
Căn cứ pháp lý
Pháp luật quy định về đường tự mở như thế nào?
Đường dân sinh hay còn được biết đến với tên gọi khác đó chính là đường tự mở và được định nghĩa là đường do dân mở tự phát, không nằm trong kế hoạch mở đường, làm đường của nhà nước và chính quyền địa phương. Đường dân sinh còn được biết đến là đường mở trên bất động sản liền kề phục vụ mục đích làm lối đi trong trường hợp chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không có lối đi ra đường công cộng( hay còn gọi là lối đi qua).
Theo khoản 1 điều 171 Luật đất đai 2013 pháp luật về quyền sử dụng hạn chế so với thửa đất liền kề thì quyền sử dụng hạn chế so với thửa đất liền kề gồm có quyền về lối đi. Nghĩa là chủ sở hữu thửa đất này có quyền về lối đi so với thửa đất liền kề .
Cũng theo điều 254 Bộ luật dân sự 2015 Quy định về đường tự mở về lối đi qua như sau:
“1. Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.
Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.
Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thoả thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác xác định.
3. Trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2 Điều này mà không có đền bù.”
Như vậy, chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra đường công cộng thì có quyền yêu cầu mở lối đi qua bất động sản liền kề.
Theo quy định của pháp luật, các hộ gia đình có quyền viết đơn xin cấp cơ quan có thẩm quyền mở đường đi lối lại cho dân, phục vụ cho lao động sản xuất và đi lại, sinh hoạt hàng ngày. Và yêu cầu mở lối đi này phải có sự đồng thuận của tất cả các hộ gia đình, mỗi đơn cần nếu rõ lý do xin mở đường, có đầy đủ chữ ký của các hộ gia đình liên quan. Cơ quan có thẩm quyền tại địa bàn sẽ xem xét và mở một lối đi cho toàn bộ hộ dân cư trên diện tích đất nhà nước.
Người dân làm thủ tục xin mở đường cần chuẩn bị gì?
Hiện nay, với nhu yếu về nhà tại, đất ở ngày càng lớn, thực trạng nhà ở bị vây bọc ngày càng nhiều thi việc tranh chấp ngày càng phát sinh phổ cập. Pháp luật nước ta đã có những pháp luật khá rõ ràng về việc mở lối đi cũng như xử lý tranh chấp.
Để mở đường, bên xin mở đường hoặc bên nhường đất mở đường cần làm thủ tục hồ sơ nộp lên phòng đăng kí đất đai gồm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hợp đồng thỏa thuận về việc hiến đất. Tuy nhiên, cần lưu ý trình tự thủ tục đăng kí xác lập hoặc thay đổi, chấm dứt quyền sử dụng hạn chế thửa đất liền kề theo Điều 73 nghị định 43/2014/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai.
– Khi phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền sử dụng hạn chế thửa đất liền kề thì một trong các bên nộp đơn, giấy chứng nhận (nếu có), hợp đồng hoặc bản án, quyết định của tòa án nhân dân cho văn phòng đăng ký đất đai.
– Văn phòng đăng ký đất đai kiểm tra, cập nhật vào hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai và thể hiện trên giấy chứng nhận nếu có yêu cầu.
Trong trường hợp nếu hai bên không thỏa thuận được với nhau, phát sinh tranh chấp thì sẽ căn cứ theo Luật đất đai 2013 và Bộ Luật dân sự 2015 để giải quyết. Theo đó, các bên có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết.
Tuy vậy, căn cứ tại điều 202 Luật đất đai 2013 thì nhà nước khuyến khích các bên tự hòa giải, nếu không tự hòa giải được, các bên có thể gửi đơn đến UBND cấp xã để UBND cấp xã tổ chức vận động hòa giải. Nếu chưa được tổ chức vận động hòa giải thì không đủ điều kiện để khởi kiện ra tòa án( theo quy định của nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP)
Hướng giải quyết tranh chấp về đường tự mở
Hiện tại, không có quy định về khoảng cách đường dân sinh nhưng việc xây dựng đường dân sinh phải phù hợp với Quy hoạch phát triển giao thông vận tải và quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cấp thẩm quyền phê duyệt. Pháp luật cũng không có quy định cụ thể về bề rộng của đường dân sinh, nhưng đa phần bề rộng nền đường thường nhỏ hơn 3,0 m, mặt đường được cứng hoá bằng bê tông xi măng, rải nhựa hoặc bằng vật liệu sẵn có như gạch, đá sỏi, cấp phối suối hoặc đường đất…
Cách giải quyết tranh chấp lối đi chung đối với các trường hợp tranh chấp đất đai và tranh chấp liên quan đến đất đai là khác nhau. Cụ thể cách giải quyết tranh chấp lối đi chung như sau:
– Hòa giải tranh chấp đất đai:
* Tự hòa giải hoặc thông qua hòa giải ở cơ sở
Tại khoản 1 Điều 202 Luật Đất đai 2013 quy định:
“Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở”
Đây là cách thức giải quyết được Nhà nước khuyến khích nhưng kết quả giải quyết không bắt buộc các bên phải thực hiện mà phụ thuộc vào sự thiện chí của các bên.
* Bắt buộc hòa giải tại UBND cấp xã
Tại khoản 2 Điều 202 Luật Đất đai 2013 quy định:
“Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải”
Theo các quy định nêu trên, nếu các bên tranh chấp không hòa giải được nhưng muốn giải quyết tranh chấp thì phải gửi đơn đến UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất để hòa giải; nếu không hòa giải sẽ không được khởi kiện hoặc gửi đơn đề nghị UBND cấp huyện, cấp tỉnh giải quyết.
Lưu ý: Hòa giải là phương thức giải quyết bắt buộc đối với tranh chấp đất đai. Điều này cũng có nghĩa, đối với tranh chấp liên quan đến đất đai (tranh chấp mở lối đi chung) thì không bắt buộc phải thực hiện hòa giải.
– Đề nghị UBND cấp huyện, cấp tỉnh giải quyết
Theo khoản 2 Điều 203 Luật Đất đai 2013, tranh chấp mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013 thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết:
+ Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền (nếu tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân với nhau thì nộp tại UBND cấp huyện).
Trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính.
+ Khởi kiện tại Tòa án nơi có đất tranh chấp theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
– Khởi kiện tại Tòa án nhân dân
Căn cứ khoản 1, 2 Điều 203 Luật Đất đai 2013, các tranh sau đây thì đương sự được khởi kiện tại Tòa án nhân dân gồm:
+ Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai.
+ Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai. Theo đó, để được khởi kiện tranh chấp đất đai phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
- Người khởi kiện có quyền khởi kiện.
- Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo loại việc.
- Tranh chấp chưa được giải quyết.
- Tranh chấp đã được hòa giải tại UBND cấp xã.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Xác định thành viên hộ gia đình khi thực hiện công chứng, chứng thực “Hộ gia đình sử dụng đất”
- Có mấy nhóm người sử dụng đất ở Việt Nam
- Giải quyết tranh chấp di sản thừa kế là quyền sử dụng đất như thế nào?
Thông tin liên hệ
Luật sư 247 đã cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến vấn đề “Quy định về đường tự mở”. Ngoài ra, chúng tôi có hỗ trợ dịch vụ pháp lý khác liên quan đến tư vấn pháp lý về bản án tranh chấp đất đai. Hãy nhấc máy lên và gọi cho chúng tôi qua số hotline 0833.102.102 để được đội ngũ Luật sư, luật gia giàu kinh nghiệm tư vấn, hỗ trợ, đưa ra giải đáp cho quý khách hàng.
Câu hỏi thường gặp
Theo Điều 40 Luật Giao thông đường bộ 2008 quy định về đặt tên và số hiệu đường bộ như sau:
– Đường bộ được đặt tên hoặc số hiệu như sau:
+ Tên đường được đặt tên danh nhân, người có công hoặc tên di tích, sự kiện lịch sử, văn hóa, tên địa danh hoặc tên theo tập quán; số hiệu đường được đặt theo số tự nhiên kèm theo chữ cái nếu cần thiết; trường hợp đường đô thị trùng với quốc lộ thì sử dụng cả tên đường đô thị và tên, số hiệu quốc lộ;
+ Tên, số hiệu đường bộ tham gia vào mạng lưới đường bộ trong khu vực, đường bộ quốc tế thực hiện theo thỏa thuận giữa Việt Nam với các quốc gia có liên quan.
Đường bộ kết nối vào mạng lưới đường bộ trong khu vực, đường bộ quốc tế thì sử dụng cả tên, số hiệu đường trong nước và tên, số hiệu đường trong khu vực, đường bộ quốc tế.
– Việc đặt tên, số hiệu đường bộ do cơ quan có thẩm quyền phân loại đường bộ quyết định; riêng đường đô thị, đường tỉnh, việc đặt tên do HĐND cấp tỉnh quyết định trên cơ sở đề nghị của UBND cùng cấp.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam không có quy định rõ thế nào là đường đi chung. Nhưng trên thực tế, theo cách hiểu thông thường nhất, đường đi chung là phần diện tích đất được cắt chừa ra để các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất làm lối đi giao thông công cộng và do các chủ sở hữu đất liền kề đó sử dụng.