Xin chào luật sư, hiện tại tôi đang làm việc tại bộ phận nhân sự của một công ty du lịch. Tôi được biết từ khi Bộ luật lao động năm 2019 được ban hành; thì có nhiều quy định mới về lĩnh vực này. Tôi muốn hỏi luật sư về một số điểm mới về tranh chấp lao động trong Bộ luật lao động 2019?
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Căn cứ pháp lý
Bộ luật lao động năm 2012
Nội dung tư vấn
Bộ luật lao động năm 2019 được ban hành có những thay đổi nhất định trong lĩnh vực lao động. Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi là những quy định mới của bộ luật này. Vậy trong vấn đề tranh chấp lao động thì sao? Hãy cùng luật sư 247 tìm hiểu một số điểm mới về tranh chấp lao động trong Bộ luật lao động 2019 ngay sau đây:
Khái niệm và các loại tranh chấp lao động?
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 179 của Bộ Luật lao động 2019 quy định:
Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ; lợi ích phát sinh giữa các bên trong quá trình xác lập, thực hiện; hoặc chấm dứt quan hệ lao động; tranh chấp giữa các tổ chức đại diện người lao động với nhau; tranh chấp phát sinh từ quan hệ có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động. Các loại tranh chấp lao động bao gồm:
– Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động; giữa người lao động với doanh nghiệp; tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; giữa người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại;
– Tranh chấp lao động tập thể về quyền hoặc về lợi ích giữa một hay nhiều tổ chức đại diện người lao động với người sử dụng lao động; hoặc một hay nhiều tổ chức của người sử dụng lao động.
(Bộ Luật lao động 2012 quy định: Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền; nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động; Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa NLĐ với người sử dụng lao động; và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động.)
Số lượng trọng tài viên lao động của Hội đồng trọng tài lao động?
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 185 của Bộ Luật lao động 2019; thì số lượng trọng tài viên lao động của Hội đồng trọng tài lao động do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định; ít nhất là 15 người, bao gồm số lượng ngang nhau do các bên đề cử, cụ thể như sau:
– Tối thiểu 05 thành viên do cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đề cử, trong đó có Chủ tịch Hội đồng là đại diện lãnh đạo và thư ký Hội đồng là công chức của cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
– Tối thiểu 05 thành viên do công đoàn cấp tỉnh đề cử;
– Tối thiểu 05 thành viên do các tổ chức đại diện của người sử dụng lao động trên địa bàn tỉnh thống nhất đề cử.
Như vậy, số lượng trọng tài viên lao động của Hội đồng trọng tài lao động ít nhất là 15 người
(Bộ Luật lao động 2012 quy định “Số lượng thành viên Hội đồng trọng tài lao động là số lẻ và không quá 07 người.”)
Các tranh chấp lao động cá nhân không bắt buộc phải được giải quyết thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 188 của Bộ Luật lao động 2019 thì các tranh chấp lao động dưới đây không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải:
– Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải; hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
– Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
– Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;
– Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế; về bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về việc làm, về bảo hiểm tai nạn lao động; bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động;
– Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp; tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
– Giữa người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại.
Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Hội đồng trọng tài lao động
– Căn cứ vào Khoản 7 Điều 188 của Bộ Luật lao động 2019 quy định: Trường hợp không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải quy định tại khoản 1 Điều (Điều 188) hoặc trường hợp hết thời hạn hòa giải quy định tại khoản 2 (Điều 188) mà hòa giải viên lao động không tiến hành hòa giải hoặc trường hợp hòa giải không thành theo quy định tại khoản 4 (Điều 188) thì các bên tranh chấp có quyền lựa chọn một trong các phương thức sau để giải quyết tranh chấp: yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết.
– Căn cứ vào Điều 189 của Bộ Luật lao động 2019: Trong đó, việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân của Hội đồng trọng tài lao động được quy định như sau (quy định mới)
+ Trên cơ sở đồng thuận; các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết tranh chấp; trong trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 188 của Bộ Luật lao động 2019. Khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết tranh chấp; các bên không được đồng thời yêu cầu Tòa án giải quyết; trừ trường hợp quy định tại khoản 4 (Điều 189).
+ Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu giải quyết tranh chấp theo quy định tại khoản 1 (Điều 189); Ban trọng tài lao động phải được thành lập để giải quyết tranh chấp.
+ Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Ban trọng tài lao động được thành lập; Ban trọng tài lao động phải ra quyết định về việc giải quyết tranh chấp; và gửi cho các bên tranh chấp.
+ Trường hợp hết thời hạn quy định tại khoản 2 (Điều 189) mà Ban trọng tài lao động không được thành lập; hoặc hết thời hạn quy định tại khoản 3 (Điều 189); mà Ban trọng tài lao động không ra quyết định giải quyết tranh chấp; thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
+ Trường hợp một trong các bên không thi hành quyết định giải quyết tranh chấp của Ban trọng tài lao động; thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền
Căn cứ vào Điều 194 của Bộ Luật lao động 2019; thì thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền:
– Thời hiệu yêu cầu hòa giải viên lao động thực hiện hòa giải tranh chấp lao động tập thể về quyền là 06 tháng kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền hợp pháp của mình bị vi phạm.
– Thời hiệu yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền là 09 tháng kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền hợp pháp của mình bị vi phạm.
– Thời hiệu yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền là 01 năm; kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền hợp pháp của mình bị vi phạm.
(Bộ Luật lao động 2012 quy định: thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền là 01 năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm).
Trường hợp người lao động có quyền đình công
Căn cứ vào Điều 199 của Bộ Luật lao động 2019 quy định:
Tổ chức đại diện người lao động là bên tranh chấp lao động tập thể về lợi ích có quyền tiến hành thủ tục quy định tại các điều 200, 201; và 202 của Bộ Luật lao động 2019 để đình công trong trường hợp sau đây:
– Hòa giải không thành; hoặc hết thời hạn hòa giải quy định tại khoản 2 Điều 188 của Bộ Luật lao động 2019; mà hòa giải viên lao động không tiến hành hòa giải;
– Ban trọng tài lao động không được thành lập; hoặc thành lập nhưng không ra quyết định giải quyết tranh chấp; hoặc người sử dụng lao động là bên tranh chấp không thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của Ban trọng tài lao động.
(Bộ Luật lao động 2012 quy định: Việc đình công chỉ được tiến hành đối với các tranh chấp lao động tập thể về lợi ích ;và sau thời hạn sau đây: Sau thời hạn 05 ngày; kể từ ngày Hội đồng trọng tài lao động lập biên bản hòa giải thành mà một trong các bên không thực hiện thỏa thuận đã đạt được; Sau thời hạn 03 ngày; kể từ ngày Hội đồng trọng tài lao động lập biên bản hòa giải không thành.)
Trường hợp đình công bất hợp pháp
Căn cứ vào Điều 204 của Bộ Luật lao động 2019; quy định các trường hợp đình công bất hợp pháp dưới đây:
– Không thuộc trường hợp được đình công quy định tại Điều 199 của Bộ Luật lao động 2019.
(Bộ Luật lao động 2012 quy định; “Trường hợp không phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể về lợi ích”)
– Không do tổ chức đại diện người lao động có quyền tổ chức và lãnh đạo đình công
(Bộ Luật lao động 2012 quy định: “Tổ chức cho những người lao động không cùng làm việc cho một người sử dụng lao động đình công”)
– Vi phạm các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành đình công (quy định mới).
– Khi tranh chấp lao động tập thể đang được cơ quan; tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết theo quy định.
– Tiến hành đình công trong trường hợp không được đình công theo quy định;
– Khi đã có quyết định hoãn hoặc ngừng đình công của cơ quan có thẩm quyền theo quy định.
Mời bạn xem thêm
- Đang điều trị tai nạn lao động có được trả lương không?
- Quy định về người lao động là người giúp việc trong gia đình?
- Chi phí cần trả để người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài?
Trên đây là tư vấn của Luật sư 247 về nội dung vấn đề ”Một số điểm mới về tranh chấp lao động trong Bộ luật lao động 2019” Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc; cuộc sống. Nếu có thắc mắc và cần nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ hãy liên hệ 0833.102.102
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 190 của Bộ Luật lao động 2019: Thời hiệu yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là 09 tháng kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.
Căn cứ vào Điều 187 của Bộ Luật lao động 2019 thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bao gồm:
– Hòa giải viên lao động;
– Hội đồng trọng tài lao động;
– Tòa án nhân dân.