Người được miễn trách nhiệm hình sự có được coi là phạm tội không

24/09/2021
Người được miễn trách nhiệm hình sự có được coi là phạm tội không
985
Views

Căn cứ xin miễn trách nhiệm hình sự là một vấn đề đang được rất nhiều người quan tâm. Đây là trường hợp một người đã thực hiện tội phạm nhưng do đáp ứng các điều kiện nhất định mà không phải chịu hậu quả của việc thực hiện tội phạm đó. Vậy Người được miễn trách nhiệm hình sự có được coi là phạm tội không? Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu nhé!

Căn cứ pháp lý

Bộ Luật Hình Sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

Miễn trách nhiệm hình sự là gì?

Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng trong luật hình sự. Nó được áp dụng đối với người phạm tội trong những điều kiện nhất định; mà Cơ quan tiến hành tố tụng thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

Miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp một người đã thực hiện tội phạm; nhưng do đáp ứng các điều kiện nhất định mà không phải chịu hậu quả của việc thực hiện tội phạm đó.

Xét về bản chất pháp lý của miễn trách nhiệm hình sự. Đây là chế định nhân đạo được áp dụng đối với người mà hành vi của người đó đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm; cụ thể trong Bộ luật hình sự nhưng do người này có các điều kiện nhất định để được miễn trách nhiệm hình sự.

Các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự

Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015; có 02 trường hợp miễn trách nhiệm hình sự. Đó là đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự và có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

Người phạm tội đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự

Đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp; một người có hành vi phạm tội sẽ được xem xét miễn TNHS; mà không cần có bất kỳ một điều kiện nào khác kèm theo khi có các căn cứ thỏa mãn quy định này.

Các trường hợp đương nhiên miễn trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể tại Điều 16, khoản 1 Điều 29 BLHS và khoản 2 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Cụ thể, phải miễn TNHS cho người phạm tội khi thuộc các căn cứ sau:

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Theo Điều 16 Bộ luật hình sự 2015; Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm. Đây là trường hợp người phạm tội tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng tuy không có gì ngăn cản.

Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

Đây là trường hợp mà một người đã thực hiện một hành vi được coi là tôi phạm; nhưng trong quá trình tố tụng có sự thay đổi chính sách pháp luật mà hành vi này không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

Khi có quyết định đại xá.

Đại xá là việc miễn trách nhiệm hình sự đối với một loại tội phạm nhất định. Văn bản đại xá có hiệu lực đối với những hành vi phạm tội; được nêu trong văn bản đó xảy ra trước khi ban hành văn bản đại xá thì được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu đã khởi tố, truy tố hoặc xét xử thì phải đình chỉ; nếu đã chấp hành xong hình phạt thì được coi là không có án tích. Thẩm quyền đại xá thuộc về Quốc hội và được ban hành nhân dịp những sự kiện trọng đại nhất của đất nước.

Trên thực tế, Việt Nam mới có 2 lần đại xá, đó là vào năm 1946 và năm 1976.

Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì được miễn TNHS.

Trường hợp này được quy định cụ thể tại Tội gián điệp theo quy định khoản 4 Điều 110 Bộ luật hình sự 2015. Theo đó, người đã nhận làm gián điệp; nhưng không thực hiện nhiềm vụ được giao mà tự thú, thành khẩn khai báo thì đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự.

Xem thêm: Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội có thể đi tù 15 năm

Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự

– Thứ nhất, khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

– Thứ hai, khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.

– Thứ ba, trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.

– Thứ tư, người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS.

Quy định này mở rộng căn cứ để xem xét miễn TNHS cho người phạm tội khi họ thỏa mãn các điều kiện: một là, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do vô ý hoặc ít nghiêm trọng; hai là, khách thể bị xâm hại là tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản; ba là,đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; bốn là, người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS.

– Thứ năm, người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp theo quy định và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 BLHS, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự (khoản 2 Điều 91 BLHS).

– Thứ sáu, người nào trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định đã được giáo dục 2 lần và đã được tạo điều kiện ổn định cuộc sống hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc với số lượng từ 500 cây đến dưới 3.000 cây, nhưng đã tự nguyện phá bỏ, giao nộp cho cơ quan chức năng có thẩm quyền trước khi thu hoạch, thì có thể được miễn TNHS (quy định tại khoản 4 Điều 247 BLHS);

Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn TNHS (quy định tại khoản 7 Điều 364 BLHS); người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn TNHS (quy định tại khoản 6 Điều 365 BLHS); người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn TNHS (quy định tại khoản 2 Điều 390 BLHS). Tất cả các quy định tại các tội phạm cụ thể này đều thể hiện rõ chính sách khoan hồng đặc biệt của Nhà nước ta đối với người phạm tội.

Người được miễn trách nhiệm hình sự có được coi là phạm tội không?

Cơ sở của miễn trách nhiệm hình sự cũng xuất phát từ cơ sở của trách nhiệm hình sự, tức là hành vi phạm tội của người phạm tội, song do có những điều kiện mà luật định để có thể được miễn trách nhiệm nên người phạm tội trong trường hợp dó được miễn trách nhiệm hình sự. Như vậy miễn trách nhiệm hình sự chỉ có thẻ áp dụng đối với người phạm tội. Không thể miễn trách nhiệm hình sự đối với người không phạm tội hoặc không đủ căn cứ để xác định được hành vi của người đó là hành vi phạm tội.

Miễn trách nhiệm hình sự còn được áp dụng đối với “trường hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm” hoặc “khi có quyết định đại xá”. Theo quy định tại Điều 25 Bộ luật hình sự thì miễn trách nhiệm hình sự là việc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho người phạm tội “nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”.

Như vậy, người được miễn trách nhiệm hình sự là người có hành vi phạm tội nhưng được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp nhất định chứ không phải người không phạm tội. Việc miễn trách nhiệm hình sự có thể do cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án áp dụng (tùy theo từng giai đoạn của vụ án).

Mời bạn xem thêm bài viết:

Trên đây là bài viết tư vấn của chúng tôi về vấn đề “Người được miễn trách nhiệm hình sự có được coi là phạm tội không”. Nếu có thắc mắc gì cần tư vấn và hỗ trợ xin vui lòng liên hệ: 0833102102

Câu hỏi thường gặp

Miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội?

 Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;
Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án

Bị ung thư thì có được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự không ?

 Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
-> Như vậy bị ung thư được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự vì bị bệnh hiểm nghèo

5/5 - (1 bình chọn)
Chuyên mục:
Hình sự

Trả lời