Đình chỉ giải quyết vụ án khi thời hiệu khởi kiện đã hết
Ở một số quốc gia trên thế giới như Anh, Úc, New Zealand… thời hiệu khởi kiện được quy định thành một đạo luật riêng biệt. Theo pháp luật dân sự Việt Nam; tùy thuộc vào loại vụ việc; quan hệ pháp luật tranh chấp (Hợp đồng, bồi thường thiệt hại, lao động, thừa kế, tranh chấp thương mại; …) mà pháp luật có quy định khác nhau về thời hiệu khởi kiện; đình chỉ giải quyết vụ án khi thời hiệu khởi kiện đã hết.
Căn cứ pháp lí
Thời hiệu khởi kiện
- Quyền khởi kiện là quyền con người được Hiến pháp ghi nhận. Pháp luật có các quy định đảm bảo thực hiện quyền khởi kiện; nhưng cũng quy định giới hạn thời gian để chủ thể thực hiện quyền khởi kiện; giới hạn đó gọi là “thời hiệu khởi kiện”.
- Theo Bộ luật Dân sự năm 2015; (BLDS 2015) thì thời hiệu khởi kiện là; “Thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp”
- Thời hiệu là thời gian do luật quy định; mang tính chất bắt buộc phải tuân thủ. Trong quan hệ giao dịch dân sự; các chủ thể không thể tự thỏa thuận kéo dài hay rút ngắn thời hiệu khởi kiện; bất cứ thỏa thuận nào của các bên về không áp dụng thời hiệu khởi kiện đều không có giá trị pháp lý.
- Vì vậy chủ thể có quyền phải chủ động yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền; lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm trong thời gian do pháp luật quy định. Hết thời hiệu khởi kiện chủ thể có quyền; lợi ích hợp pháp bị xâm phạm sẽ mất quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật, không được pháp luật bảo vệ; bên có nghĩa vụ không bị cưỡng chế bắt buộc thực hiện nghĩa vụ. Các bên chỉ có thể thỏa thuận thực hiện; khi bên có nghĩa vụ tự nguyện thực hiện và theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) quy định; “Các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng dân sự”.
Cách xác định thời hiệu khởi kiện
Thời hiệu khởi kiện không chỉ được quy định tại BLDS mà còn được quy định ở một số các văn bản luật chuyên ngành khác như Luật Thương mại; Bộ luật Lao động, Luật Trọng tài thương mại, Luật Hàng hải; Luật Hàng không dân dụng Việt Nam… và thời hiệu được áp dụng theo quy định của BLDS, luật khác có liên quan.
Do vậy; đòi hỏi chúng ta phải xác định được quan hệ pháp luật tranh chấp tương ứng với loại thời hiệu khởi kiện được quy định tại văn bản pháp luật nào để từ đấy xác định đúng thời hiệu khởi kiện
(ví dụ: Tranh chấp hợp đồng là 03 năm theo Điều 429 BLDS 2015; tranh chấp lao động cá nhân là 01 năm theo khoản 2 Điều 190 Bộ luật Lao động 2019…); đồng thời; phải xác định đúng thời điểm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể có quyền bị xâm phạm để tính thời hiệu khởi kiện.
Để tính thời hiệu khởi kiện chính xác phải xác định được thời điểm bắt đầu tính thời hiệu; nếu không xác định được thời điểm bắt đầu tính thời hiệu sẽ không thể xác định được thời điểm kết thúc thời hiệu.
- Khi tính thời hiệu phải tuân thủ cách tính thời hạn. Thời hiệu; được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên của thời hiệu đến thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu.
- Tuy nhiên; không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong trường hợp:
- i) Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu;
- ii) Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn liền với tài sản;
- iii) Tranh chấp quyền sử dụng đất.
- Đối với giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật; trái đạo đức xã hội; và do giả tạo thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế. Việc xác định đúng thời hiệu khởi kiện; có ý nghĩa rất quan trọng đối với Tòa án khi giải quyết tranh chấp dân sự; cũng như trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án của Viện kiểm sát.
Hệ quả áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện theo yêu cầu
- Theo khoản 2 Điều 184 BLTTDS năm 2015:
- “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc”.
- Đây là quy định mới về thời hiệu khởi kiện; phù hợp với nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Khi hết thời hiệu khởi kiện; chủ thể vẫn có quyền gửi đơn khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền, yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Đối với vụ việc hết thời hiệu khởi kiện; nhưng người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu từ chối áp dụng thời hiệu; không ai có yêu cầu Tòa án áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện; thì Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Chỉ khi hết thời hiệu khởi kiện và có đương sự yêu cầu áp dụng quy định về thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án thì Tòa án mới căn cứ quy định tại điểm e khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 để quyết định đình chỉ giải vụ án.
Như vậy; Tòa án không được tự ý viện dẫn lý do đã hết thời hiệu khởi kiện để đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Quy định nêu trên của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam; đã bảo vệ gần như tuyệt đối quyền khởi kiện cho chủ thể có quyền; và có nét tương đồng với quy định của Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế tại khoản 1 Điều 10.9; “Việc hết thời hiệu chỉ có hiệu lực nếu bên có nghĩa vụ viện dẫn việc hết thời hiệu như là một biện pháp tự vệ” và Điều 2223 BLDS Pháp quy định Thẩm phán không thể tự viện dẫn việc hết thời hiệu khởi kiện.
Thực tiễn xác định thời hiệu khởi kiện; và đình chỉ giải quyết vụ án theo yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện
Tóm tắt vụ án:
- Ngày 17/01/2012; Quỹ bảo lãnh tín dụng A (viết tắt là nguyên đơn) và Văn phòng Luật sư B; (viết tắt là bị đơn) ký Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 01/HĐ-DVPL; thỏa thuận bị đơn có trách nhiệm tham gia vụ án với tư cách là người bảo vệ quyền; lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đến khi giải quyết xong vụ án; phí dịch vụ; 25% tổng số tiền nguyên đơn được Tòa án tuyên miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho Công ty C và thanh toán 02 đợt.
- Đến ngày 12/7/2012; các bên ký Phụ kiện hợp đồng số 01/PK-HĐ sửa đổi Điều VI; của Hợp đồng dịch vụ pháp lý ngày 17/01/2012; theo đó; thỏa thuận bị đơn giúp thủ tục giám đốc thẩm hủy bản án đã có hiệu lực PL để xét xử lại theo thủ tục chung; tiếp tục bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đến khi TAND giải quyết xong vụ án; chi phí khoán gọn 25% tương đương 5 tỷ đồng chuyển thành tiền hứa thưởng.
- Nguyên đơn đã chi tạm ứng cho bị đơn số tiền 1,2 tỷ đồng.
- Từ ngày 28/02/2014 đến tháng 1/2015; nguyên đơn đã gửi nhiều văn bản cho bị đơn yêu cầu trả lại số tiền 1,2 tỷ tạm ứng; vì cho rằng bị đơn đã không hoàn thành công việc theo thỏa thuận nhưng các bên không thỏa thuận được cách thức giải quyết.
- Trong thời gian từ cuối năm 2014 đến đầu năm 2016 Thanh tra nhà nước của thành phố X thực hiện thanh tra hoạt động của nguyên đơn.
- Ngày 22/6/2016; Thanh tra thành phố đã chuyển hồ sơ đến CQCSĐT yêu cầu điều tra làm rõ và kiến nghị khởi tố đối với cá nhân sai phạm liên quan đến hoạt bảo lãnh và ký; thực hiện hợp đồng dịch vụ pháp lý và Phụ kiện hợp đồng ngày 12/7/2012.
- CQCSĐT đã ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự ngày 3/8/2017 và quyết định khởi tố bị can ngày 03/8/2018 đối với người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn do “Vi phạm quy định quản lý; sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí” và tiến hành điều tra.
- Tại Bản kết luận điều tra vụ án hình sự đề nghị truy tố; ngày 15/6/2018 của CQCSĐT xác định:
- Chưa thấy nguyên đơn và bị đơn cấu kết; móc nối thông qua hợp đồng dịch vụ pháp lý để chiếm đoạt tiền của Nhà nước; vụ việc này chỉ là tranh chấp dân sự; nếu các bên không tự giải quyết có thể khởi kiện tại TAND có thẩm quyền; không có dấu hiệu về tội phạm nên không có cơ sở xử lý hình sự về vụ việc này. Ngày 24/9/2019, UBND thành phố có Thông báo kết quả thực hiện kết luận Thanh tra.
- Ngày 20/7/2020, nguyên đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bị đơn phải hoàn trả lại số tiền 600 triệu đồng đã tạm ứng trước.
Bị đơn trình bày:
- Đã nhận tạm ứng 1,2 tỷ đồng của nguyên đơn. Bị đơn không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn; vì đã thực hiện 1 phần công việc; khi đang thực hiện công việc theo thỏa thuận thì nguyên đơn không hợp tác; và từ ngày 28/2/2014 đến tháng 1/2015; nguyên đơn có nhiều văn bản đơn phương chấm dứt hợp đồng và tố cáo bị đơn đến CQCSĐT.
- Ngày 24/12/2020; bị đơn có đơn đề nghị Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện đình chỉ giải quyết vụ án; với lý do hết thời hiệu khởi kiện.
- Tòa án đã xác định: Từ cuối năm 2014; nguyên đơn đã biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm nhưng vẫn không khởi kiện, đến ngày 20/7/2020 mới gửi đơn khởi kiện và Tòa án thụ lý.
- Theo Điều 429 BLDS năm 2015; thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết là 3 năm kể từ năm 2014;
- Ngày 24/12/2020; bị đơn có văn bản yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện đình chỉ giải quyết vụ án do hết thời hiệu khởi kiện; căn cứ quy định tại điểm e khoản 1 Điều 217 BLTTDS 2015; Tòa án ban hành Quyết định số 163/2021/QĐST-DS; ngày 24/3/2021 đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo yêu cầu của bị đơn.
- Nguyên đơn có đơn kháng cáo; cho rằng việc đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là trái quy định của pháp luật.
Trên đây là tư vấn của Luật sư 247 về nội dung vấn đề “Đình chỉ giải quyết vụ án khi thời hiệu khởi kiện đã hết?” Hy vọng rằng các kiến thức trên có thể giúp ích cho bạn trong công việc và cuộc sống. Nếu có thắc mắc cần thêm sự tư vấn và giúp đỡ hãy liên hệ 0833102102.
Mời bạn đọc xem thêm
Mất năng lực hành vi dân sự có được kết hôn không?
Căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự như thế nào?
Thời hiệu theo bộ luật dân sự năm 2015
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ khoản 3 Điều 192 và điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS 2015; thì nguyên đơn vẫn có quyền khởi kiện lại.
Căn cứ khoản 4 điều 188 BLTTDS 2015;
Vì người có quyền và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng thông qua 3 con đường: tự mình đề nghị, đương sự khác đề nghị và Tòa án đưa vào.
Nhận định ĐÚNG: Cơ sở pháp lý: Điểm c khoản 1 Điều 37 BLTTDS 2015.