Hôn nhân thực tế là khái niệm khá quen thuộc. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn nhiều người dân chưa nắm rõ về vấn đề này. Điều này dẫn đến sự bất tiện trong quá trình giải quyết ly hôn, chia tài sản,… khi hai bên muốn chấm dứt hôn nhân thực tế. Vậy, quy định về hôn nhân thực tế hiện nay được pháp luật quy định như thế nào? Hãy tham khảo bài viết sau đây của Luật sư 247!
Căn cứ pháp lý
Nội dung tư vấn
Hôn nhân thực tế là gì?
Hôn nhân thực tế là một thuật ngữ pháp lý để chỉ những trường hợp hai bên nam nữ chung sống trong quan hệ vợ chồng, đã được gia đình, xã hội thừa nhận nhưng chưa được đăng ký tại cơ quan hộ tịch, chưa được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Hôn nhân thực tế có các đặc điểm sau:
- Hôn nhân thực tế là việc hai người trong mối quan hệ đó được pháp luật công nhận là vợ chồng những giữa họ không có giấy đăng ký kết hôn do cơ quan có thẩm quyền cấp.
- Phải có chứng cứ là hai người đã và đang chung sống như vợ chồng về mặt thực tế và thực sự coi nhau như vợ chồng. Việc tồn tại khái niệm hôn nhân thực tế là phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và phong tục tập quán của đất nước trong thời kỳ trước đó.
Cách xác định hôn nhân thực tế
- Về hình thức: Hai bên chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà không đăng ký kết hôn. Trong đó, các bên đảm bảo điều kiện độ tuổi, tình trạng độc thân và các yêu cầu khác.
- Về nội dung: Hai bên nam, nữ phải tuân thủ đầy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình. Cũng như được sự công nhận của gia đình, họ hàng, làng xóm. Các điều kiện được xác định chặt chẽ để đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật. Còn trong hiện tại, các bên phải thực hiện các thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định liên quan.
Hệ quả pháp lý của hôn nhân thực tế như thế nào?
Trong trường hợp các cặp nam nữ đáp ứng điều kiện về hôn nhân thực tế theo như những trường hợp trên thì quan hệ hôn nhân thực tế này có các hệ quả pháp lý theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 điều chỉnh như sau:
- Về quan hệ hôn nhân: họ sẽ được pháp luật công nhận quan hệ hôn nhân theo quy định tại Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP nêu trên.
- Về con chung: Trong trường hợp yêu cầu ly hôn thì vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con; Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con
- Về tài sản: Căn cứ Điều 27 Luật này thì tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận. Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế. Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản (Điều 31 Luật này)
Quy định về hôn nhân thực tế hiện nay
Tuy các Văn bản này đã hết hiệu lực, tuy nhiên vẫn được sử dụng để giải quyết đối với các hôn nhân thực tế. Đây là nội dung quy định trong khoản 1 Điều 131 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Theo hướng dẫn tại điểm c mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 thì: “Được coi là nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;
- Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận;
- Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;
- Họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình
Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Các quy định cung cấp đặc điểm để xét có phải là hôn nhân thực tế hay không. Qua đó để trả lời về các ràng buộc, công nhận của pháp luật đối với cuộc hôn nhân. Khi tham gia vào các mối quan hệ, mọi người cần tìm hiểu các quy định liên quan.
Để đảm bảo các quyền lợi cũng như được pháp luật bảo vệ. Để được công nhận là hôn nhân thực tế, phải đảm bảo các đặc điểm được quy định như trên.
Hôn nhân thực tế không được pháp luật công nhận, ly hôn như thế nào?
Theo quy định khi hôn nhân thực tế không được công nhận thì họ không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu một trong các bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Tòa án thụ lý vụ án để giải quyết theo hướng tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng; nếu họ có yêu cầu về nuôi con và chia tài sản, thì Tòa án áp dụng giải quyết theo thủ tục chung.
Về quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Bên cạnh đó, việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Mời bạn đọc xem thêm
- Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống pháp luật xử lý như thế nào?
- Hướng dẫn thủ tục trích lục bản án ly hôn nhanh chóng năm 2022
- Mẫu đơn khởi kiện thuận tình ly hôn mới quy định ra sao?
Thông tin liên hệ Luật sư X
Trên đây là tư vấn của Luật Sư X về vấn đề “Quy định về hôn nhân thực tế hiện nay″. Chúng tôi hy vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến tra cứu lệ phí đăng ký lại khai sinh của chúng tôi; mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833.102.102.
Facebook: www.facebook.com/luatsux
Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Nếu như sau thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2003 mà các cặp vợ chồng không tiến hành thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn hợp pháp thì họ sẽ không được xem là vợ chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Theo đó nếu có yêu cầu về thực hiện thủ tục ly hôn thì không áp dụng luật mà chỉ xử lý về vấn đề tranh chấp quyền nuôi con và tranh chấp phân chia tài sản.
Thuật ngữ hôn nhân thực tế lần đầu tiên được ghi nhận chính thức tại Thông tư số 112-NCPL ngày 19/8/1972 của Tòa án Tối cao hướng dẫn xử lý về mặt dân sự những trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn theo Luật định.
– Về nội dung: Hai bên nam, nữ phải tuân thủ đầy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình.
– Về hình thức: Hai bên chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà không đăng ký kết hôn.