Khi hôn nhân không còn có thể tiếp tục thì giải pháp cuối cùng đó là ly hôn, tuy nhiên việc ly hôn sẽ kéo theo hàng loạt vấn đề phát sinh cần phải giải quyết, như vấn đề con cái, tiền bạc, nợ nần giải quyết như thế nào. Cụ thể có một thắc mắc đó là đã ly hôn vợ, chồng có phải trả nợ thay không? Vậy nếu bạn quan tâm và muốn tìm hiểu vấn đề này thì hãy theo dõi bài viết dưới đây của Luật sư 247 nhé!
Căn cứ pháp lý
Đã ly hôn vợ, chồng có phải trả nợ thay không?
Căn cứ vào mục đích vay nợ trong thời kỳ hôn nhân để xác định đó có phải nợ chung hay không. Hiển nhiên, nếu là nợ riêng thì sau khi ly hôn, nợ của người nào thì người đó có trách nhiệm phải trả.
Vậy đối với khoản nợ chung trong thời kỳ hôn nhân thì sao? Sau khi đã ly hôn thì vợ, chồng có nghĩa vụ phải trả món nợ chung này nữa không?
Theo quy định tại Điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác.
Như vậy, sau khi ly hôn, nếu hai vợ chồng vẫn có nợ chung thì bắt buộc cả hai người cùng phải thực hiện việc trả nợ. Tuy nhiên, vẫn có các trường hợp ngoại lệ sau:
– Do vợ chồng tự thỏa thuận hoặc thỏa thuận với người thứ ba;
– Do Tòa án quyết định nếu hai bên không tự thỏa thuận được với nhau. Lúc này, trong đơn xin ly hôn (đơn phương hoặc thuận tình), một trong hai người có thể yêu cầu Tòa án phân chia cụ thể trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật;
Nói tóm lại, việc đã ly hôn vợ, chồng có phải trả nợ thay không còn tùy thuộc vào sự thỏa thuận của vợ chồng và người có quyền, lợi ích liên quan. Nếu thỏa thuận được thì sẽ thực hiện theo thỏa thuận, nếu không thì có thể nhờ Tòa án định đoạt.
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng phải cùng trả nợ?
Theo quy định tại Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, vợ chồng cùng có nghĩa vụ trả nợ chung nếu việc vay nợ đó xảy ra trong thời kỳ hôn nhân và:
– Do cả hai vợ chồng cùng thỏa thuận, xác lập và theo quy định hai người phải cùng chịu trách nhiệm;
– Do một trong hai vợ chồng thực hiện nhưng để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
– Nghĩa vụ trả nợ phát sinh nhằm chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
– Việc vay nợ để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình.
Ngoài ra, Điều 27 Luật này cũng khẳng định, với các nghĩa vụ nêu trên thì vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới. Đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm liên đới với các giao dịch của một bên thực hiện nếu:
– Việc vay nợ nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
– Vợ hoặc chồng đứng ra vay vốn nhưng có sự ủy quyền của người còn lại hoặc có sự đồng ý của cả hai vợ chồng…
Trường hợp nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân không là nợ chung của vợ, chồng
Không phải mọi khoản nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân đều là nợ chung của vợ, chồng. Tại Điều 45 LHNGĐ 2014 quy định 04 nghĩa vụ tài sản riêng của vợ chồng:
– Của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;
– Phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng; mà nó không phải nguồn sống duy nhất của gia đình hoặc để duy trì; phát triển khối tài sản chung. Hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
– Phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện mà không vì nhu cầu của gia đình;
– Phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.
Do vậy, căn cứ vào mục đích sử dụng của khoản tiền vay nợ đó để xác định đó là nợ chung hay nợ riêng và vợ chồng có phải cùng trả hay không.
Chưa trả hết nợ chung, có được ly hôn?
Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về quyền được yêu cầu ly hôn của vợ chồng như sau:
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Như vậy, theo quy định trên thì việc chưa trả hết nợ không ảnh hưởng gì đến quyền yêu cầu ly hôn của vợ, chồng.
Các căn cứ để được ly hôn?
Toà án sẽ giải quyết ly hôn cho vợ chồng nếu có các căn cứ sau đây:
– Vợ chồng tự nguyện ly hôn, đã thoả thuận được chia tài sản, trông nom con, cùng yêu cầu ly hôn thì Toà án công nhận thuận tình ly hôn. (theo Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014).
– Có căn cứ bạo lực gia đình hoặc nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vợ chồng làm cuộc sống hôn nhân trầm trọng, không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. (theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014).
Từ các phân tích nêu trên, có thể thấy, việc vợ chồng chưa trả hết nợ chung, không phải điều kiện để Toà án hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng và cũng không phải căn cứ để Toà án không giải quyết cho vợ chồng ly hôn.
Video Luật sư giải đáp thắc mắc Đã ly hôn vợ, chồng có phải trả nợ thay không?
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của Luật Sư 247 về vấn đề “Đã ly hôn vợ, chồng có phải trả nợ thay không?“. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận được sự tư vấn; giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến thành lập công ty; tạm dừng công ty, mẫu đơn xin giải thể công ty; giấy phép bay flycam, thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất, tra cứu thông báo phát hành hóa đơn điện tử…. của luật sư 247. Hãy liên hệ: 0833 102 102.
Hoặc qua các kênh sau:
- FB: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Có thể bạn quan tâm:
- Giải quyết như thế nào khi ly hôn xảy ra tranh chấp BĐS?
- Ly hôn, tòa triệu tập mấy lần theo QĐ năm 2022?
- Hai vợ chồng đã ly hôn có được kết hôn lại không?
- Con 22 tuổi có được làm đơn ly hôn thay mẹ không?
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ Điều 37 LHNGĐ 2014, thì nếu người chồng vay tiền nhưng sử dụng vào mục đích cá nhân chơi lô đề, không phải nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì đây không phải là nghĩa vụ chung, khi ly hôn thì người vợ không có nghĩa vụ trả nợ cho chồng.
Theo Điều 33 LHNGĐ 2014 thì tài sản chung của vợ chồng được quy định như sau:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra. thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh. hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng. và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân. trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này. tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung. hoặc được tặng cho chung. và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định…
Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố…
(Điều 59 LHNGĐ 2014)