Trong dịch COVID-19, đặc biệt là sau trận lũ lụt lịch sử ở miền Trung, nhiều đối tượng lập facebook giả mạo cá nhân, tổ chức uy tín, nổi tiếng, thường xuyên cập nhật thông tin, hình ảnh của họ, từ đó kêu gọi cộng đồng quyên góp từ thiện để trục lợi. Ngoài ra còn có các đối tượng ngụy tạo hoàn cảnh khó khăn để lừa tiền từ thiện. Vậy trường hợp này sẽ bị xử lý như thế nào?
Hãy cùng Luật sư 247 tìm hiểu về vấn đề này nhé!
Căn cứ pháp lý
Nội dung tư vấn
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là gì?
Lừa đảo là hành vi gian dối để làm người khác tin nhằm thực hiện những mục đích vụ lợi, trái pháp luật .
Chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quản lý của người khác vào phạm vi sở hữu của mình.
Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì
“1.Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
Như vậy, có thể hiểu lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi gian dối do một người thực hiện nhằm mục đích dịch chuyển một cách trái pháp luật tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá,… đang thuộc sở hữu, quản lý của người khác vào phạm vi sở hữu của mình.
Ngụy tạo hoàn cảnh khó khăn để lừa tiền từ thiện bị xử lý thế nào?
Hiện nay, bên cạnh việc lợi dụng dịch bệnh Covid 19 để thu lợi; nhiều cá nhân cũng dựng lên hoàn cảnh khó khăn để kêu gọi; lừa tiền từ thiện. Điển hình như vụ việc của Cao Thị Hoài gần đây. Hoài, 23 tuổi, ở huyện Giao Thủy, đã bị Công an tỉnh Nam Định bắt ngày 29/9 về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cảnh sát cáo buộc, Hoài thấy trên mạng có một số người làm công tác thiện nguyện cho trẻ sơ sinh thu hút lượng ủng hộ lớn nên lợi dụng việc này để lừa đảo. Cô ta lập Facebook “Mai Mai” với slogan “Bảo vệ mạng sống cho các con” và mạo nhận làm việc ở phòng khám.
Hoài lấy hình ảnh trẻ em tử vong, thai nhi xấu số… đăng lên Facebook và kêu gọi gửi tiền giúp đỡ những bé có hoàn cảnh khó khăn hoặc mua đất, vật liệu xây mộ phần. Nhà chức trách cho hay, từ tháng 11/2020 đến 5/2021, tài khoản “Mai Mai” có hàng nghìn lượt tương tác và 688 nhà hảo tâm gửi 261 triệu đồng. Hoài đã chiếm đoạt số tiền này.
Như vậy, việc ngụy tạo hoàn cảnh khó khăn để lừa tiền từ thiện tùy từng trường hợp mà có thể bị xử lý về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Mặt khách thể
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước; cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản, bao gồm vật, tiền. Việc xâm phạm quyền sở hữu cũng thể hiện ở hành vi chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người khác; sau khi lừa lấy được tài sản.
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác; nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân; mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu; đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; tội cướp giật tài sản; đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt.
Mặt chủ quan
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp; người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có tính chất chiếm đoạt; do lỗi cố ý của chủ thể, mục đích là mong muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của người bị hại.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện thủ đoạn gian dối; và hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu sau khi đã có tài sản một cách hợp pháp; ngay thẳng rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản thì không phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản; tùy trường hợp cụ thể; người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác như tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Mặt chủ thể
Chủ thể của tội phạm có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; chủ thể của tội phạm không phải là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tức là nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; mà chỉ có người trên 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm hữu trái phép tài sản của người khác để tạo cho mình khả năng định đoạt tài sản đó một cách gian dối. Đó là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho người có tài sản tin là sự thật; nên đã tự nguyện giao tài sản cho người có hành vi gian dối để họ chiếm đoạt. Hai dấu hiệu đặc trưng của tội phạm này là hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt.
Về hành vi: Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản:
- Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả nhưng làm cho người khác tin đó là thật; và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói; bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động; và bằng nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản.
- Chiếm đoạt tài sản; được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Đặc điểm của việc chiếm đoạt này là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối
Khung hình phạt với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 có quy định như sau:
“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây; thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật; đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
…”.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Hành vi lừa đảo vờ chạy án để chiếm đoạt tài sản bị xử lý ra sao?
- Lừa bán nhà đất qua lập vi bằng bị xử lý như thế nào?.
Liên hệ Luật sư
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Luật Sư 247 về Ngụy tạo hoàn cảnh khó khăn để lừa tiền từ thiện bị xử lý thế nào?
Hi vọng bài viết trên sẽ giúp ích cho bạn đọc.
Nếu có bất kì thắc mắc nào về thủ tục pháp lý có liên quan. Hãy liên hệ ngay với chúng tôi: : 0833.102.102.
Câu hỏi thường gặp
Theo điểm c khoản 1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP; hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng tin nhắn chỉnh sửa có thể phải chịu mức phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Với hành vi được quy định là hành vi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác.
Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể phải đối mặt với các mức hình phạt khác nhau và mức phạt tù cao nhất là 20 năm đối với trong trường hợp: chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Người có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng tin nhắn chỉnh sửa còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm; tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.