Các chế độ đãi ngộ quốc gia mà người lao động cần quan tâm và cung cấp thêm thông tin cho mình nhận được những lợi ích của quốc gia.Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu về vấn đề Đãi ngộ quốc gia qua bài viết sau đây.
Đại ngộ quốc gia là gì?
Đãi ngộ quốc gia một thuật ngữ đã xuất hiện và được áp dụng từ rất lâu trong giao lưu dân sự trong nước và quốc tế. Theo đó, đãi ngộ quốc gia chính là đối xử giữa các quốc gia dành cho nhau thông việc thể hiện các quyền lợi dành cho công dân, pháp nhân nước ngoài như công dân, pháp nhân trong nước của mình.
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia bao gồm các nội dung nào?
Thứ nhất, đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia quy định trong Hiệp định GATS
- Trong những lĩnh vực được nêu trong Danh mục cam kết, và tùy thuộc vào các điều kiện và tiêu chuẩn được quy định trong Danh mục đó, liên quan tới tất cả các biện pháp có tác động đến việc cung cấp dịch vụ, mỗi Thành viên phải dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Thành viên đó dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của mình.
Đây cũng là nguyên tắc tiếp cận thị trường yêu cầu mỗi thành viên cần phải có những nguyên tắc ứng xử phù hợp hơn với các thành viên khác về các dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ. Trong những lĩnh vực đã cam kết mở cứa thị trường, các thành viên không được duy trì hoặc ban hành những biện pháp sau đây, dù là ở quy mô vùng hoặc trên toàn lãnh thổ, trừ trường hợp có quy định khác trong danh mục cam kết:
- Hạn chế số lượng nhà cung cấp dịch vụ dù dưới hình thức hạn ngạch theo số lượng, độc quyền, toàn quyền cung cấp dịch vụ hoặc yêu cầu đáp ứng nhu cầu kinh tế;
- Hạn chế tổng trị giá các giao dịch vụ hoặc tài sản dưới hình thức hạn ngạch theo số lượng, hoặc yêu cầu phải đáp ứng nhu cầu kinh tế chung của hiêp ước.
- Hạn chế tổng số lượng các dịch vụ hoặc sản phẩm theo số lượng đơn vị dưới hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu về nhu cầu kinh tế;
- Hạn chế về tổng số thể nhân có thể được tuyển dụng trong một lĩnh vực dịch vụ cụ thể hoặc một nhà cung cấp dịch vụ được phép tuyển dụng cần thiết hoặc trực tiếp liên quan tới việc cung cấp một dịch vụ cụ thể dưới hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu về nhu cầu kinh tế;
- Các biện pháp hạn chế hoặc yêu cầu các hình thức pháp nhân cụ thể hoặc liên doanh thông qua đó người cung cấp dịch vụ có thể cung cấp dịch vụ theo nhu cầu thực tế của từng quốc gia thành viên.
- Hạn chế về tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài bằng việc quy định tỷ lệ phần trăm tối đa cổ phần của bên nước ngoài hoặc tổng trị giá đầu tư nước ngoài tính đơn hoặc tính gộp.
Thứ hai, nguyên tắc đối xử quốc gia về thuế và quy tắc trong nước quy định trong Hiệp định GAT.
- Các bên ký kết thừa nhận rằng các khoản thuế và khoản thu nội địa, cũng như luật, hay quy tắc hay yêu cầu tác động tới việc bán hàng, chào bán, vận tải, phân phối hay sử dụng sản phẩm trong nội địa cùng các quy tắc định lượng trong nước yêu cầu có pha trộn, chế biến hay sử dụng sản phẩm với một khối lượng tỷ trọng xác định, không được áp dụng với các sản phẩm nội địa hoặc nhập khẩu với kết cục là bảo hộ hàng nội địa. Từ đó tạo ra sự bất công đối với những quốc gia thành viên có.
Mời các bạn tham khảo thêm :
Thông tin liên hệ
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi. Nếu quý khách có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư của chúng tôi mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833102102
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp :
Mỗi một danh mục cam kết cụ thể theo quy định cần phải quy định:
Điều khoản, giới hạn và điều kiện tiếp cận thị trường;
Điêu kiện và tiêu chuẩn về đối xử quốc gia;
Việc thực hiện những cam kết bổ sung;
Lộ trình thực hiện các cam kết bổ sung;
Lộ trình thực hiện các cam kết đó, nếu có thể; và
Thời hạn các cam kết đó có hiệu lực.
Một thành viên có thể đáp ứng những yêu cầu thuộc quy định trên bằng cách dành cho dịch vụ hoặc nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ một Thành viên nào khác một sự đối xử tương tự về hình thức hoặc sự đối xử khác biệt về hình thức mà thành viên đó dành cho dịch vụ hoặc nhà cung cấp dịch vụ của mình.
Sự đối xử tương tự hoặc khác biệt về hình thức được coi là kém thuận lợi hơn nếu nó làm thay đổi điều kiện cạnh tranh có lợi cho dịch vụ hay nhà cung cấp dịch vụ của Thành viên đó so với dịch vụ hoặc nhà cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ Thành viên nào khác.