Thuế giao dịch chứng khoán đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của xã hội trong thời gian gần đây. Lý do chính khiến các quốc gia muốn thực hiện thu thuế giao dịch chứng khoán là vì đây được xem là một nguồn thu ngân sách quan trọng và ổn định. Việc áp dụng thuế này không chỉ giúp tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn có thể được sử dụng để điều tiết thị trường chứng khoán, giảm thiểu các hoạt động đầu cơ quá mức và thúc đẩy tính minh bạch của thị trường. Cùng tìm hiểu Thuế chứng khoán ở Mỹ là gì? tại bài viết sau của Luật sư 247
Quy định về thuế chứng khoán ở Mỹ như thế nào?
Mỹ đã triển khai thuế giao dịch chứng khoán (Security Transaction Taxes – STT) từ rất sớm, với bang New York áp dụng loại thuế này lần đầu vào năm 1905 nhằm tạo nguồn thu và giảm thâm hụt ngân sách nhà nước. Trong suốt 8 thập kỷ tiếp theo, thuế giao dịch chứng khoán được sửa đổi nhiều lần, cụ thể là 9 lần. Năm 1932, mức thuế ban đầu là 2 xu trên mệnh giá 100 USD đã tăng gấp đôi do ảnh hưởng của cuộc Đại Suy Thoái. Tuy nhiên, vào tháng 3/1933, các công ty đã giảm mệnh giá cổ phiếu xuống dưới 10 USD từ 100 USD, giúp giảm đáng kể số thuế phải nộp. Kết quả là vào tháng 6/1933, mức thuế đã được thay đổi, tính trên mỗi cổ phiếu thay vì trên mệnh giá 100 USD. Mức thuế STT này cuối cùng được bãi bỏ vào năm 1965, nhưng đến năm 1966, STT lại được áp dụng với mức 0,1% đối với việc phát hành chứng khoán và 0,04% đối với việc chuyển nhượng.
Hiện nay, Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch (SEC) đánh thuế đối với giao dịch chứng khoán dưới nhiều hình thức khác nhau. Một trong số đó là thuế thu nhập từ vốn ngắn hạn, áp dụng đối với lợi nhuận từ việc bán tài sản được nắm giữ trong một năm hoặc ít hơn. Mức thuế này có thể dao động từ 0% đến 40%, tùy thuộc vào thu nhập và thời gian nhà đầu tư (NĐT) nắm giữ tài sản. Thuế thu nhập từ vốn ngắn hạn thường cao hơn so với thuế thu nhập từ vốn dài hạn, vốn là loại thuế đánh vào lợi nhuận từ việc bán tài sản được nắm giữ trên một năm. Mức thuế suất đối với thu nhập từ vốn dài hạn là 0%, 15%, hoặc 20%, tùy thuộc vào thu nhập chịu thuế của nhà đầu tư.
Cụ thể, thuế đánh vào cổ tức cũng được chia thành hai loại: cổ tức đủ điều kiện và cổ tức không đủ điều kiện. Thuế suất đối với cổ tức đủ điều kiện thường thấp hơn và phụ thuộc vào thu nhập chịu thuế của nhà đầu tư cũng như thời gian nắm giữ tài sản. Nếu nhà đầu tư không nắm giữ cổ phiếu đủ lâu, Sở Thuế vụ (IRS) có thể coi chúng là không đủ điều kiện, dẫn đến mức thuế cao hơn. Nhà đầu tư có thể tự mình xử lý thuế hoặc nhờ chuyên gia trợ giúp, sử dụng các phần mềm thuế dễ sử dụng và có thể nộp hồ sơ miễn phí. Sau khi kết thúc năm tài chính, nhà đầu tư sẽ nhận được Biểu mẫu 1099-DIV hoặc Biểu K-1 từ nhà môi giới hoặc tổ chức liên quan, cung cấp thông tin về số tiền nhận được và liệu cổ tức có đủ điều kiện hay không để điền vào tờ khai thuế của mình.
Các trường hợp được giảm thuế thu nhập vốn tại Mỹ bao gồm: đầu tư dài hạn với mức thuế suất thấp hơn, bán chứng khoán kém hiệu quả để tránh thuế lợi nhuận từ việc bán tài sản, và quyên góp cổ phiếu trực tiếp cho tổ chức từ thiện để không phải ghi nhận lãi vốn và có khả năng được khấu trừ thuế.
>> Xem thêm: Mức đóng thuế thu nhập cá nhân
Chính sách thuế đối với thị trường chứng khoán tại Bỉ
Từ năm 2007, Chính phủ Bỉ đã áp dụng thuế đối với các giao dịch mua bán chứng khoán trên thị trường thứ cấp, ngoại trừ cổ phiếu mới phát hành. Chính sách thuế này đã trải qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung nhằm đảm bảo tính phù hợp và hiệu quả. Phạm vi áp dụng của chính sách thuế bao gồm các giao dịch cổ phiếu và trái phiếu, cũng như việc mua lại cổ phiếu vốn hóa của các Quỹ Đầu tư Tập thể (Collective Investment Funds – CIV). Yếu tố quan trọng để xác định xem một giao dịch có nằm trong phạm vi áp dụng thuế là nơi cư trú của các trung gian tài chính tại Bỉ. Giao dịch phải được thực hiện tại Bỉ thông qua trung gian của Bỉ và ít nhất một bên mua hoặc bán phải là công dân Bỉ.
Quốc hội Bỉ đã thông qua một quy định vào ngày 22/12/2016 nhằm mở rộng phạm vi áp dụng thuế. Theo đó, kể từ ngày 01/01/2017, các giao dịch được thực hiện bởi người dân Bỉ thông qua các trung gian tài chính không phải của Bỉ cũng sẽ bị áp thuế. Mặc dù mức thuế suất không thay đổi, số tiền tối đa đã được tăng lên gấp đôi nhằm tăng cường nguồn thu ngân sách. Các mức thuế áp dụng khác nhau tùy thuộc vào loại chứng khoán được giao dịch. Cụ thể, mức thuế là 0,09% (lên đến tối đa 1.300 Euro cho mỗi giao dịch trái phiếu); 0,27% (lên đến tối đa 1.600 Euro cho mỗi giao dịch cổ phiếu và chứng chỉ của một số quỹ đầu tư theo hợp đồng); và 1,32% (lên đến tối đa 4.000 Euro cho mỗi giao dịch quỹ đầu tư).
Một số giao dịch được miễn thuế bao gồm các giao dịch do các tổ chức tài chính thực hiện trên tài khoản của chính họ, chẳng hạn như ngân hàng, công ty bảo hiểm, tổ chức tài trợ lương hưu và các quỹ đầu tư tập thể. Ngoài ra, các giao dịch do người nộp thuế không cư trú thực hiện trên tài khoản của chính họ cũng được miễn thuế. Điều này nhằm tạo ra sự linh hoạt và giảm bớt gánh nặng thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán trong nước.
Chính sách thuế đối với thị trường chứng khoán tại Phần Lan
Năm 1996, Phần Lan đã thiết lập mức thuế suất là 1,6% đối với việc chuyển nhượng chứng khoán doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu giao dịch diễn ra trên một sàn giao dịch chứng khoán đủ điều kiện, thuế sẽ được miễn. Điều này nhằm khuyến khích việc giao dịch trên các sàn chứng khoán công nhận, tạo điều kiện thuận lợi và minh bạch cho thị trường.
Thuế không được áp dụng trừ khi cả hai bên tham gia giao dịch không phải là cư dân Phần Lan, trừ khi có một số điều kiện đặc biệt như: nếu một bên không cư trú ở Phần Lan là một công ty có hơn 50% tài sản là bất động sản ở đất nước này; hoặc nếu chứng khoán Phần Lan được giao dịch là các công ty nhà ở. Điều này nhấn mạnh mục đích của chính sách thuế, hướng tới việc thu thuế từ các hoạt động kinh doanh trong nước và hạn chế việc trốn thuế từ các công ty nước ngoài.
Cơ sở tính thuế cho giao dịch được đặt theo giá của giao dịch, bao gồm bất kỳ khoản thanh toán nào được thực hiện theo điều kiện của giao dịch. Đến năm 2012, Pháp thành lập Pháp Thuế giao dịch tài chính (FFTT). Mức thuế suất hiện tại là 0,3% đối với giao dịch cổ phiếu và 0,01% đối với giao dịch tần suất cao. Các giao dịch trong phạm vi bao gồm mua lại cổ phiếu trong các công ty niêm yết cụ thể của Pháp, giao dịch tần suất cao, và giao dịch hoán đổi nợ tín dụng đối với nợ chính phủ EU.
Tuy nhiên, có một số trường hợp được miễn thuế giao dịch nhưng vẫn phải báo cáo và khai báo. Điều này bao gồm các giao dịch mua liên quan đến đợt phát hành chứng khoán, các giao dịch được xử lý bởi công ty thanh toán bù trừ hoặc trung tâm lưu ký chứng khoán, và các giao dịch liên quan đến hoạt động tạo lập thị trường.
Ngày 01/8/2014, Cơ quan thuế Pháp đã ban hành một bản sửa đổi quan trọng đối với giao dịch tài chính, xác định lại vai trò và trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ đầu tư trong chuỗi giao dịch. Điều này nhằm tăng cường tính minh bạch và quản lý trong hoạt động giao dịch tài chính, đồng thời giảm thiểu rủi ro về việc trốn thuế và vi phạm pháp luật thuế.
Thông tin liên hệ:
Vấn đề “Quy định về thuế chứng khoán ở Mỹ như thế nào?” đã được chúng tôi cung cấp qua thông tin bài viết trên. Luật sư 247 luôn có sự hỗ trợ nhiệt tình từ các chuyên viên tư vấn pháp lý, quý khách hàng có vướng mắc hoặc nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý liên quan như là tư vấn luật đất đai, vui lòng liên hệ đến hotline 0833102102. Chúng tôi sẽ giải quyết các khúc mắc của khách hàng, làm các dịch vụ một cách nhanh chóng, dễ dàng, thuận tiện
Mời bạn xem thêm
- Chi phí đo đạc đất tranh chấp hiện nay là bao nhiêu?
- Mẫu công văn làm rõ hồ sơ dự thầu mới năm 2024
- Viên chức có được làm thêm không?
Câu hỏi thường gặp
Thuế là một khoản tiền bắt buộc phải trả cho một tổ chức chính phủ để tài trợ cho các khoản chi tiêu công khác nhau. Thuế có thể được áp dụng trực tiếp hoặc gián tiếp và có thể được trả bằng tiền hoặc tương đương với giá trị lao động của nó.
Thuế giá trị gia tăng (GTGT): là thuế gián thu tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.