Quy định pháp luật về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản như thế nào? Bài viết dưới đây của Luật sư X sẽ cung cấp thông tin chi tiết đến các bạn về quy định của pháp luật về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản giúp mọi người hiểu thêm vấn đề trên.
Căn cứ pháp lý
Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
Bắt cóc là gì?
Bắt cóc được xem là hình thức bí mật bắt giữ người trái pháp luật nhằm thực hiện một mục đích hoặc âm mưu nào đó về vấn đề kinh tế, chính trị.
Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi bắt con người làm con tin hay bắt và giữ lại nhằm buộc người muốn chuộc phải bảo đảm thực hiện một lời hứa nhằm thỏa mãn một yêu cầu của người bắt, nhưng chỉ bắt người làm con tin nhằm mục đích buộc phía người muốn chuộc phải giao tài sản hoặc một số tiền thì mới được xem là hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Nếu việc bắt cóc nhằm mục đích khác thì không phải là bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà tùy vào từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi bắt cóc sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng.
Quy định pháp luật về tội bắt cọc nhằm chiếm đoạt tài sản
Theo quy định tại Điều 169 – Bộ luật hình sự mới nhất về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản như sau:
“1. Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Dùng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
d) Đối với người dưới 16 tuổi;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
h) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%;
i) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
k) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của 02 người trở lên mà tỷ lệ của mỗi người 46% trở lên;
d) Làm chết người.
5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Một người bắt giữ người nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản như trường hợp nêu trên bị coi là phạm tội bắt cóc người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, được quy định tại Điều 169 Bộ Luật Hình sự 2015
Theo Điều 169 BLHS, người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản phải có đồng thời hai hành vi: bắt cóc con tin và đe dọa chủ tài sản để chiếm đoạt tại sản.
Hành vi bắt cóc là hành vi bắt giữ người trái phép. Người bị bắt giữ có thể là trẻ em hoặc là người lớn có quan hệ tình cảm thân thiết với chủ tài sản. Hành vi bắt cóc được thực hiện nhằm chiếm đoạt tài sản. Nếu việc bắt cóc không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản mà nhằm vào một mục đích khác thì hành vi bắt cóc không cấu thành tội này. Ví dụ, nếu sự việc chỉ dừng lại ở việc bắt giữ con gái của A mà không có hành vi đòi tiền chuộc của B thì không cấu thành tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà có thể là hành vi khách quan của tội bắt, giam, giữ người trái pháp luật.
Cấu thành tội phạm của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan
Có hành vi bắt cóc người khác:
Bắt cóc là hành vi giữ người trái pháp luật. Thông thường, hành vi bắt người làm con tin được thực hiện ám muội và đưa người bị bắt đến một nơi nào đó. Sau đó, người phạm tội tìm cách thông báo cho người thân của nạn nhân biết.
Theo đó, đối tượng yêu cầu người thân của họ phải nộp một số tiền thì mới thả người. Bằng không, người bị bắt cóc sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm.
Hành vi giữ người trái pháp luật được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc bằng những thủ đoạn khác như cho uống thuốc ngủ, thuốc mê, xịt ê-te, lừa dối. Qua đó, đối tượng bắt được người làm con tin.
Thủ đoạn bắt cóc không phải dấu hiệu đặc trưng của hành vi phạm tội (không có ý nghĩa trong việc định tội). Tuy nhiên, hành vi bắt cóc người làm con tin lại là đặc trưng cơ bản của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Bởi vì, bắt người làm con tin chính là một thủ đoạn nhằm chiếm đoạt tài sản.
Ngoài hành vi bắt cóc người làm con tin, người phạm tội còn có hành vi đe dọa người khác (cơ quan, tổ chức hoặc người thân của con tin).
Cụ thể, nếu không giao nộp tiền hoặc tài sản thì con tin sẽ bị giết, bị đánh đập, hành hạ… Hành vi đe dọa thể hiện qua nhiều phương pháp khác nhau như: gọi điện thoại, viết thư, nhắn tin qua người khác hoặc trực tiếp gặp người thân của con tin…
Cùng với việc đe đi đe dọa, người phạm tội còn có thể có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc có những hành vi, thủ đoạn khác đối với người bị bắt làm con tin để người này sợ hãi.
Để qua đó, họ yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc người thân của nạn nhân nộp tiền hoặc tài sản. Ví dụ, đánh, trói, dọa giết, dọa đánh, dọa đem bán ra nước ngoài, bán cho các ổ mại dâm…
Đối với hành vi xâm phạm trực tiếp đến con tin, nếu cấu thành một tội độc lập thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng với hành vi xâm phạm.
Hậu quả
Hậu quả của tội này không phải là yếu tố bắt buộc để định tội. Tức là, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin thì khi đó, tội phạm đã hoàn thành.
Tuy vậy, nếu gây ra hậu quả thì tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.
Mặt chủ quan của tội phạm
Yếu tố lỗi
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt được thực hiện do cố ý.
Mục đích
Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Nếu hành vi bắt cóc người làm con tin lại nhằm một mục đích khác thì đó không phải tội này.
Và tùy lúc, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm tương ứng khác.
Chủ thể của tội phạm
Người phạm tội là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi sẽ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 169 Bộ luật hình sự.
Khách thể của tội phạm
Nghĩa là, người phạm tội cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể (quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân).
Mời bạn xem thêm bài viết
- Hành vi bắt cóc trẻ em bị xử phạt bao nhiêu năm tù theo quy định?
- Bắt cóc hiếp dâm người dưới 18 tuổi bị xử lý như thế nào?
- Vận chuyển ma túy mà không biết có phạm tội không
Thông tin liên hệ Luật sư X
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật sư X về nội dung “Quy định pháp luật về tội bắt cọc nhằm chiếm đoạt tài sản” Hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho bạn đọc! Luật sư X là đơn vị Luật uy tín; chuyên nghiệp, được nhiều cá nhân và tổ chức đặt trọn niềm tin. Được hỗ trợ và đồng hành để giải quyết những khó khăn về mặt pháp lý của quý khách là mong muốn của Luật sư X. Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn; giúp đỡ của Luật sư 247 hãy liên hệ: 0833 102 102
Câu hỏi thường gặp
Hình phạt là phạt cảnh cáo; cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.
Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân.