Hiện nay với thực trạng hoạt động mạnh mẽ của các app cho vay tiêu dùng, duyệt hồ sơ vay một cách nhanh chóng thông qua thông tin cá nhân hoặc thông qua chính các tài khoản mạng xã hội mà nhiều người gặp khó khăn về tài chính đã lựa chọn phương thức vay này để có chi phí trang trải. Từ đó tình trạng đăng ảnh đòi nợ trên khắp các trang mạng xã hội ngày càng trở nên phổ biến. Vậy đăng ảnh người nợ tiền ngân hàng lên mạng xã hội thì có vi phạm không? Hãy theo dõi bài viết dưới đây của Luật sư 247 để biết thêm thông tin nhé!
Căn cứ pháp lý
Pháp luật về quyền hình ảnh của cá nhân
Bộ luật dân sự 2015 ghi nhận cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình, điều đó có nghĩa rằng, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý, việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh (nếu không có thỏa thuận khác.
Có thể thấy hình ảnh của cá nhân thuộc về bí mật cá nhân, đời sống riêng tư của cá nhân mà theo quy định tại Điều 38 Bộ luật dân sự 2015 thì đời sống riêng tư, bí mật cá nhân là bất khả xâm phạm và được phép luật bảo vệ. Việc thu thập, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý.
Cùng với đó pháp luật ghi nhận, nếu phát hiện người khác sử dụng hình ảnh của mình mà không xin phép thì có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định pháp luật.
Như vậy, rõ ràng pháp luật Việt Nam đã quy định cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình, bất cứ cá nhân, tổ chức nào muốn sử dụng hình ảnh của người khác thì phải được sự đồng ý của họ nếu không sẽ phải bồi thường thiệt hại và tùy mức độ mà bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự.
Pháp luật Việt Nam loại trừ trách nhiệm của người sử dụng hình ảnh của người khác (nghĩa là sẽ không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh mà vẫn được sử dụng) trong các trường hợp sau đây:
- Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng (tức không vì lợi ích cá nhân, tổ chức nào đó);
- Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
Đăng ảnh người nợ tiền ngân hàng lên mạng xã hội thì có vi phạm không?
Như đã phân tích và chỉ rõ quy định pháp luật Việt Nam ghi nhận quyền của cá nhân đối với hình ảnh của mình, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Trường hợp bên cho vay đăng ảnh của người nợ lên các trang mạng xã hội thường là xuất phát từ ý chí của người cho vay mà không có sự thỏa thuận nào trước đó với người vay tiền, do đó, theo quy định pháp luật thì đây là hành vi vi phạm pháp luật.
Đăng ảnh người nợ tiền lên mạng xã hội bị xử phạt như thế nào?
Hành vi đăng ảnh người nợ tiền lên mạng xã hội mà không được sự đồng ý của người có hình ảnh kèm theo đó còn có những thông tin lời lẽ bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người nợ tiền là hành vi vi phạm pháp luật và người thực hiện hành vi có thể sẽ bị xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự. Cụ thể như sau:
Về xử lý hành chính:
Trường hợp người bị đăng hình ảnh là người có vay tiền và có trốn tránh nghĩa vụ trả nợ thì hành vi của người đăng hình ảnh lên mạng sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP với hành vi “thu thập, và sử dụng thông tin của cá nhân khác mà không được sự đồng ý“, mức phạt tiền trong trường hợp này là từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với tổ chức vi phạm và 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với cá nhân vi phạm.
Trường hợp người bị đăng ảnh lên mạng xã hội không phải là người nợ tiền mà bị ghép ảnh và đe dọa, quấy rồi thì người thực hiện hành vi sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP với hành vi “chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của cá nhân“, mức phạt trong trường hợp này là từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với tổ chức vi phạm, 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với cá nhân vi phạm và buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật.
Về xử lý hình sự:
Trường hợp người bị đăng hình ảnh là người nợ tiền thì hành vi của người đăng hình ảnh lên mạng xã hội có thể bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 về tội làm nhục người khác với hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Khung hình phạt nhẹ nhất thì bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 30 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, nặng thì sẽ bị phạt từ từ 03 tháng đến 02 năm.
Trường hợp người bị đăng hình ảnh lên mạng xã hội không phải là người vay tiền mà bị bịa đặt thông tin thì người thực hiện hành vi vi phạm có thể bị xử lý hình sự về tội vu khống theo quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 với hành vi bịa đặt/loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Khung hình phạt nhẹ nhất đối với hành vi này là phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm, nặng thì sẽ bị phạt từ từ 01 năm đến 03 năm.
Có thể thấy, sự phổ biến của các trang mạng xã hội khiến con người ta dễ dàng thực hiện hành vi vi phạm đến đời tư cá nhân của người khác. Việc đăng tải hình ảnh cá nhân của người khác lên mạng kèm những lời lẽ xúc phạm nhiều người không hiểu biết pháp luật cứ tưởng rằng vô thưởng vô phạt nhưng không hề lường trước hậu quả pháp lý có thể sẽ phải gánh chịu không hề nhỏ.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Hành vi đang ảnh người khác lên mạng xã hội có thể sẽ phải bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác theo quy định tại Điều 592 Bộ luật dân sự 2015, gồm:
- Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
- Thiệt hại khác
Ngoài ra còn phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chiu, mức bồi thường này do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì áp dụng mức không qua 10 lần mức lương cơ sở theo quy định của nhà nước (hiện tại năm 2022 mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng).
Làm thế nào khi bị người đòi nợ đăng hình ảnh lên mạng xã hội?
Về mặt pháp lý, người nợ tiền bị đăng hình ảnh lên mạng xã hội có quyền yêu cầu người thực hiện hành vi đăng tải hình ảnh lên mạng xã hội gỡ bỏ bài đăng, bồi thường thiệt hại nếu có và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tùy theo mức độ mà xử lý hành chính hoặc hình sự.
Tuy nhiên về phần mình cũng cần tuân thủ nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận ban đầu khi vay tiền, trường hợp khó khăn thì có thể thỏa thuận để được kéo dài thời gian. Bởi suy cho cùng, nguyên nhân của mọi sự rắc rối đến từ việc bạn đã không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.
Đối với người không hề vay tiền mà bị các đối tượng cắt ghép hình ảnh đăng lên mạng cùng với lời lẽ đe dọa, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín thì phải kiên quyết và dứt khoát yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý để chấm dứt tình trạng này bảo vệ danh dự, nhân phẩm, quyền lợi chính đáng của mình.
Mời bạn xem thêm
- Bị lộ thông tin cá nhân phải làm sao?
- Bác sĩ có được tiết lộ thông tin của bệnh nhân?
- Nhân viên ngân hàng để lộ thông tin của khách hàng bị xử phạt ra sao?
Thông tin liên hệ Luatsu247
Trên đây là tư vấn của Luật Sư 247 về vấn đề “Đăng ảnh người nợ tiền ngân hàng lên mạng xã hội thì có vi phạm không?″. Chúng tôi hy vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến quy định soạn thảo mẫu đơn xin tạm ngừng kinh doanh; thủ tục giải thể công ty cổ phần; cách tra số mã số thuế cá nhân; hợp pháp hóa lãnh sự Hà Nội; gửi file đăng ký mã số thuế cá nhân, phát hành hóa đơn điện tử hoặc muốn sử dụng dịch vụ tạm ngừng kinh doanh, thủ tục xin hợp pháp hóa lãnh sự; mã tra cứu hóa đơn điện tử của chúng tôi; mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833.102.102.
Facebook: www.facebook.com/luatsux
Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình được quy định theo Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015, theo đó việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được sự đồng ý của người đó và việc sử dụng hình ảnh của người khác vào mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Theo Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Việc sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý.
Như vậy, việc tự ý đăng ảnh người khác khi chưa có sự đồng ý của người đó hoặc đăng ảnh có liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân khi chưa có sự đồng ý của người đó là hành vi vi phạm pháp luật, có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Bạn có thể yêu cầu bên cho vay phải chấm dứt việc sử dụng đồng thời gỡ những hình ảnh của bạn mà họ tự ý sử dụng hoặc làm đơn làm đơn khởi kiện kèm theo những chứng cứ chứng minh (bản ghi âm, ghi hình, lời khai của người làm chứng,…) về hành vi trái quy định của bên cho vay cho Tòa án nhân dân cấp huyện để Tòa án ra quyết định buộc bên cho vay của bạn phải chấm dứt, thu hồi, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh và bồi thưởng thiệt hại nếu có.
Ngoài ra, nếu việc bên cho vay sử dụng hình ảnh của bạn để nhằm xúc phạm nhân phẩm, danh dự của bạn, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bạn thì bạn còn có thể làm đơn trình báo đến cơ quan công an kèm theo những căn cứ chứng minh nếu những hành vi của bên cho vay xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự hoặc khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp huyện để buộc bên cho vay phải chấm dứt hành vi vi phạm, buộc công khai xin lỗi đính chính thông tin và bồi thường thiệt hại.
Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình như sau:
– Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.
– Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.