Xin chào Luật sư, em có câu hỏi cần được giải đáp. Hiện em đang là sinh viên và chuẩn bị được tiếp xúc với Luật hôn nhân gia đình. Em rất có hứng thú với những quy định về hôn nhân một vợ một chồng trong luật hiện hành. Mong Luật sư có thể Giải thích quy định hôn nhân 1 vợ 1 chồng của luật hôn nhân Luật hôn nhân Việt Nam cho em ạ. Em xin cảm ơn.
Cảm ơn quý khách hàng đã gửi câu hỏi đến Luật sư 247. Chúng tôi xin hân hạnh giải đáp thắc mắc của quý khách hàng qua bài viết dưới đây:
Căn cứ pháp lý
Luật hôn nhân và gia đình 2014
Quy định hôn nhân một vợ một chồng của Luật hôn nhân
Khoản 1 Điều 2 luật hôn nhân gia đình 2014 ghi nhận:
1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Như vậy, hôn nhân một vợ một chồng là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân gia đình. Từ quy định trên, ta có thể hiểu rằng: hôn nhân một vợ, một chồng là quan hệ hôn nhân được xác lập khi đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, theo đó, cá nhân đã kết hôn chỉ được có một vợ hoặc một chồng. Trong thời kỳ hôn nhân, nam/nữ không được kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác. Theo nguyên tắc này thì chỉ những người chưa có vợ, chưa có chồng hoặc tuy đã kết hôn nhưng hôn nhân đó đã chấm dứt (vợ hoặc chồng họ đã chết hoặc vợ chồng đã ly hôn) thì mới có quyền kết hôn với người khác.
Các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
Vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng được hiểu là hành vi trái pháp luật; hay thường gọi là hành vi ngoại tình.
Căn cứ Điểm c khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân gia đình 2014:
2. Cấm các hành vi sau đây:
c, Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.
Đầu tiên, để phân tích các trường hợp này cần chú ý đến một số khái niệm:
Người đang có vợ hoặc có chồng là người đã kết hôn theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và chưa chấm dứt quan hệ vợ chồng.
Người chưa có vợ, có chồng là người chưa kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình hoặc đã từng kết hôn nhưng đã chấm dứt quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật.
Vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng cụ thể có các trường hợp sau:
Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác.
Hành vi của người đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn với người khác là hành vi của người đang có vợ, có chồng mà lại đăng ký kết hôn với người khác (người đã có chồng, có vợ hoặc chưa có chồng, có vợ) tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hành vi này vi phạm quy định về điều kiện kết hôn. Mặc dù có đăng kí kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc kết hôn này vẫn bị coi là kết hôn trái pháp luật sẽ bị hủy bỏ.
Người đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác.
Hành vi của người đang có vợ hoặc có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác là hành vi của người đang có vợ hoặc có chồng mà tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng với người khác (người đã có chồng hoặc có vợ hoặc chưa có chồng, có vợ). Việc này sẽ làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ nhân thân và tài sản với vợ hợp pháp. Đồng thời, việc sống chung như vợ chồng là một hành vi vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục của nước ta.
Và những hành vi này đều được thực hiện với lỗi cố ý. Các chủ thể của hành vi nhận thức rõ tính chất sai trái của hành vi nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.
Cách xử lý vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
Xử phạt hành chính
Căn cứ khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP:
a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
Trách nhiệm hình sự
Căn cứ Điều 182 Bộ luật hình sự 2015:
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của Luật Sư 247 về vấn đề “Quy định hôn nhân một vợ một chồng của Luật hôn nhân Việt Nam“. Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến dịch vụ đăng ký xác nhận tình trạng hôn nhân; tạm ngừng kinh doanh chi nhánh; mẫu đơn xin giải thể công ty, thông báo giải thể công ty cổ phần…. của Luật Sư X, hãy liên hệ: 0833.102.102. Hoặc bạn có thể tham khảo thêm các kênh sau:
- FB: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Có thể bạn quan tâm
- Xin giấy giới thiệu học giáo lý hôn nhân
- Mẫu đơn xin ly hôn đồng thuận viết tay mới
- Dịch vụ xác nhận tình trạng hôn nhân trọn gói năm 2022 tại Sơn La
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ Điều 8 Luật hôn nhân gia đình 2014, điều kiện kết hôn gồm:
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn: Kết hôn giả tạo; Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; Kết hôn giữa những người theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 5;
2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
Đối với vấn đề này, hiện nay có hai luồng quan điểm trái chiều là có vi phạm pháp luật và không vi phạm pháp luật. Do pháp luật Việt Nam vẫn chưa có thông tư hướng dẫn cụ thể về vấn đề này nên đối với hai luồng quan điểm ấy vẫn chưa thể đưa ra kết luận quan điểm nào đúng, quan điểm nào sai. Đây là một vấn đề cần được các nhà làm luật quan tâm hơn nữa bởi lẽ khi mà xã hội phát triển, những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền về giới tính cũng càng được tôn trọng và bảo vệ nhiều hơn.