Quyền của cha mẹ đẻ khi đã cho con nuôi là gì?

30/11/2021
Quyền của cha mẹ đẻ khi đã cho con nuôi là gì? Sau khi cho người khác nhận nuôi con nuôi, cha mẹ đẻ có được đòi lại con không?
931
Views

Hiện nay nhu cầu xin con nuôi của các cặp vợ chồng hiếm muộn vô cùng lớn. Khi đó, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi sẽ có một mối quan hệ khăng khít, bền vững. Quyền của cha mẹ đẻ khi đã cho con nuôi là gì? Để giải đáp thắc mắc của bạn, Luật sư 247 mời bạn đọc tham khảo bài viết sau đây

Căn cứ pháp lý

Luật Nuôi con nuôi năm 2010

Nghị định 19/2011/NĐ-CP

Điều kiện nhận nuôi con nuôi

Là vấn đề liên quan đến trẻ em, do đó những người nhận nuôi con nuôi phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện nghiêm ngặt mà pháp luật quy định. Cụ thể được quy định tại Điều 14 Luật nuôi con nuôi 2010 như sau:

1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;

c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;

d) Có tư cách đạo đức tốt.

2. Những người sau đây không được nhận con nuôi:

a) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

b) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;

c) Đang chấp hành hình phạt tù;

d) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

Như vậy để được nhận con nuôi, người đó phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có đủ điều kiện kinh tế, có phẩm chất đạo đức tốt cũng như không thuộc những trường hợp bị cấm nhận nuôi con. 

Quyền và nghĩa vụ chung của cha mẹ đối với con

Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ

– Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.

– Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

– Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.

– Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng

– Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

– Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.

Nghĩa vụ và quyền giáo dục con

– Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập.

Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục con.

– Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con.

– Cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được.

Đại diện cho con

 Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật.

– Cha hoặc mẹ có quyền tự mình thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

– Đối với giao dịch liên quan đến tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, tài sản đưa vào kinh doanh của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì phải có sự thỏa thuận của cha mẹ.

– Cha, mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới về việc thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản của con được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này và theo quy định của Bộ luật dân sự.

Bồi thường thiệt hại do con gây ra

Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015

Quyền của cha mẹ đẻ khi đã cho con nuôi là gì?

Việc nuôi con nuôi là mối quan hệ giữa con nuôi và bố mẹ nuôi, giữa hai người này không có quan hệ huyết thống với nhau, mà được thông qua thủ tục xác nhận nuôi con nuôi thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc nuôi con nuôi dẫn đến hệ quả là:

“a. Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

b. Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi.

Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó.

c. Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi.

d. Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi”.

Người được nhận làm con nuôi có thể là trẻ em bị bỏ rơi hoặc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi, hoặc thậm chí là trẻ em đang có cả cha mẹ đẻ nhưng do nhu cầu hoặc điều kiện vẫn được thực hiện thủ tục nhận nuôi con nuôi, miễn sao tất cả các trường hợp nêu trên trẻ em đều dưới 16 tuổi trừ trường hợp người nhận nuôi là cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.

Xét trong trường hợp trẻ em đang có bố mẹ ruột được cho nhận con nuôi thì bố mẹ đẻ còn quyền gì không. Căn cứ vào khoản 4 Điều 24 Luật nuôi con nuôi 2010 thì

“1. Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

2. Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi.

Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó.

3. Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi.

4. Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi.“

Như vậy thì trừ trường hợp bố mẹ đẻ và bố mẹ nuôi có sự thỏa thuận với nhau, nếu không thì sau khi cho người khác nhận con nuôi bố mẹ đẻ không còn quyền và nghĩa vụ gì đối với con cái cả.

Sau khi cho người khác nhận con nuôi, cha mẹ đẻ có được đòi lại con không?

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 9 Nghị định 19/2011/ NĐ-CP hướng dẫn Luật Nuôi con nuôi

“Trường hợp những người liên quan do chưa nhận thức đầy đủ, chưa hiểu rõ những vấn đề được tư vấn hoặc bị ảnh hưởng, tác động bởi yếu tố tâm lý, sức khỏe đã đồng ý cho trẻ em làm con nuôi sau đó muốn thay đổi ý kiến, thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được lấy ý kiến, những người liên quan phải thông báo bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đang giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi. Hết thời hạn này, những người liên quan không được thay đổi ý kiến về việc cho trẻ em làm con nuôi”.

Căn cứ vào nội dung nêu trên có một trường hợp duy nhất cha mẹ đẻ được thay đổi quyết định về việc cho người khác nhận con nuôi  đó là khi đáp ứng được tất cả các điều kiện sau:

– Cha mẹ đẻ chưa nhận thức đầy đủ, chưa hiểu rõ những vấn đề được tư vấn hoặc bị ảnh hưởng, tác động bởi yếu tố tâm lý, sức khỏe

– Thời hạn thay đổi ý kiến là trong vòng 15 ngày kể từ ngày được lấy ý kiến

– Phải thông báo bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đang giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi.

Nếu việc thay đổi ý kiến thực hiện quá thời hạn 15 ngày thì việc thay đổi có không còn giá trị nữa .

Nếu muốn cha mẹ đẻ muốn chấm dứt việc nuôi con nuôi nhưng không đủ các điều kiện như trên thì cha mẹ đẻ có thể tham khảo các trường hợp dưới đây quy định tại Điều 25 Luật nuôi con nuôi 2010 căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi:

“1. Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi;

2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;

3. Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi;

4. Trong quá trình thực hiện thủ tục cho nhân con nuôi các bên thực hiện các hành vi mà pháp luật cấm như: Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em; Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi; Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi; Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số; Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước; Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi; Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc”

Như vậy, nếu vi phạm các điều nêu trên thì quan hệ nuôi con nuôi sẽ chấm dứt. Khi đó, nếu con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án có thể giao lại con cho cha mẹ đẻ. Trong trường hợp này, quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đẻ đã chấm dứt được khôi phục.

Mời bạn xem thêm bài viết:

Trên đây là tư vấn của Luật sư 247 về nội dung vấn đề “Quyền của cha mẹ đẻ khi đã cho con nuôi là gì?” Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc; cuộc sống. Nếu có thắc mắc và cần nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ hãy liên hệ 0833.102.102

Câu hỏi thường gặp

Con nuôi là gì?

Con nuôi là người được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục bởi cha, mẹ nuôi theo quy định của pháp luật.
Theo Luật hôn nhân và gia đình, quan hệ giữa con nuôi với cha, mẹ nuôi được xác lập bởi sự kiện nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Con nuôi và cha, mẹ nuôi có các nghĩa vụ và quyền giữa cha mẹ và con theo quy định của pháp luật như quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha mẹ nuôi với nhau theo quy định của Bộ luật dân sự.

Cơ quan có thẩm quyền thay đổi họ tên cho con nuôi

Căn cứ khoản 1 Điều 19 Thông tư 04/2020/TT-BTP, Điều 27 và Điều 46 Luật Hộ tịch; cơ quan có thẩm quyền thay đổi họ tên cho con nuôi gồm:
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký khai sinh trước đây; nơi người con nuôi cư trú có thẩm quyền thay đổi họ, tên cho con nuôi chưa đủ 14 tuổi;
Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã đăng ký khai sinh trước đây; nơi cư trú của người nước ngoài có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú trong nước.

5/5 - (1 bình chọn)

Để lại một bình luận