Chúng ta kết hôn với mong muốn xây dựng cuộc sống hạnh phúc. Tuy nhiên, khi ly hôn xảy đến là điều mà chúng ta không ai mong muốn; nhưng nếu đã có con thì vấn đề ly hôn sẽ khó khăn hơn nếu không thỏa thuận được ai là người trực tiếp nuôi dưỡng; mức cấp dưỡng thế nào? Pháp luật có những quy định nào về quyền nuôi con khi ly hôn? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu rõ hơn qua bài viết dưới đây.
Căn cứ pháp lý
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
- Bộ luật tố tụng dân sự 2015
- Bộ luật hình sự 2015
- Nghị đinh 167/2013/NĐ-CP
Nội dung tư vấn
Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
Tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình quy định như sau:
- Sau khi ly hôn; cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
- Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con; nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
- Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom; chăm sóc, nuôi dưỡng; giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Như vậy; khi hai người không chung sống với nhau nữa thì cha, mẹ vẫn phải thực hiện quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc; nuôi dưỡng, giáo dục con; không phải trường hợp nào cha mẹ cũng xảy ra chuyện tranh giành nuôi con. Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ nuôi con trong các trường hợp sau đây: Con chưa thành niên; Con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự; không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Các quyền và nghĩa vụ liên quan sau khi ly hôn
Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
- Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
- Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
- Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền; nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở; gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom; chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình quy định:
- Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
- Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:
- Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
- Phá tán tài sản của con;
- Có lối sống đồi trụy;
- Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể; Tòa án có thể tự mình; theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 86 của Luật này ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con; đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.
Về quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
Không chỉ được quyền thăm con mà người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng để san sẻ một phần gánh nặng về tiền bạc đối với người nuôi con. Vấn đề này được quy định cụ thể tại Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình:
“Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”.
Theo đó, khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con sẽ phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con cho đến khi con thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình.
Mức cấp dưỡng sẽ do hai bên thỏa thuận căn cứ vào thu nhập thực tế; khả năng tài chính của người cấp dưỡng cũng như nhu cầu chi tiêu của người con. Đặc biệt, khi có lý do chính đáng; mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng cũng do các bên thỏa thuận.
Khi không thể thỏa thuận được; Tòa án mới quyết định áp dụng mức cấp dưỡng cho các bên. Các phương thức cấp dưỡng cũng khá linh hoạt; có thể cấp dưỡng định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Phương thức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận.
Về thay đổi người trực tiếp nuôi con
Quyền được trực tiếp nuôi con không phải lúc nào cũng cố định. Trong các trường hợp được quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; sau đây có thể được thay đổi người nuôi con sau khi Tòa án đã có quyết định:
- Khi cha mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người nuôi con.
- Nếu con trên 7 tuổi thì khi đổi người nuôi con phải hỏi ý kiến của con.
- Cha hoặc mẹ có quyền yêu cầu nếu thấy người còn lại không còn đủ khả năng; và điều kiện để chăm sóc và mang đến cho con lợi ích tốt nhất nữa.
- Nếu cả cha mẹ đều không có đủ điều kiện để nuôi dạy con thì Tòa sẽ quyết định trao quyền nuôi cho người giám hộ.
Về xử lý khi vi phạm các quy định về quyền nuôi con
Theo quy định tại Điều 53; Điều 54 Nghị đinh 167/2013/NĐ-CP thì:
- Người nào có hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn; giữa cha mẹ và con sau khi ly hôn thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng.
- Người nào có hành vi ngăn cản quyền thăm nom; chăm sóc giữa cha, mẹ và con thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng.
Bên cạnh đó, Điều 380 Bộ luật hình sự quy định: Khi đã có quyết định của Tòa án yêu cầu cha hoặc mẹ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con nhưng không thực hiện bản án mặc dù có đủ điều kiện; đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thì có thể bị phạt tối đa 5 năm tù giam.
Ngoài ra, Điều 186 Bộ luật hình sự còn quy định nếu việc trốn tránh; hoặc từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ khiến người con lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng; sức khỏe thì có thể bị phạt cảnh cáo; cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.
Mời bạn đọc xem thêm
- Con dưới 36 tháng tuổi sau khi ly hôn ai có quyền nuôi dưỡng?
- Có thể ly hôn khi đang mang thai được không
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của Luật sư 247 về nội dung vấn đề ”Quyền nuôi con khi ly hôn và các quy định của pháp luật”. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc; cuộc sống. Nếu có thắc mắc và cần nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ hãy liên hệ 0833.102.102
Câu hỏi thường gặp
Các bên cần chứng minh các vấn đề sau đây:
– Về điều kiện kinh tế: Một trong hai người phải chứng minh mình có đủ điều kiện vật chất về thu nhập,;tài sản, nơi ở ổn định…
– Về tinh thần: Phải chứng minh bản thân có đủ thời gian để ở bên con, chăm sóc, nuôi dưỡng con,dạy dỗ, giáo dục con; tình cảm dành cho con từ trước đến nay; điều kiện cho con vui chơi, giải trí, nhân cách đạo đức của cha mẹ…
– Cung cấp thêm các chứng cứ chứng minh người còn lại không đủ điều kiện về vật chất và tinh thần để nuôi dạy con cái; thường xuyên có hành vi bạo lực; thu nhập không ổn định…
Trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:
– Người thân thích;
– Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
– Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
– Hội liên hiệp phụ nữ.
Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi; trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Như vậy; con dưới 36 tháng tuổi mẹ có thể không được trực tiếp nuôi dưỡng; khi không có đủ điều kiện cùng như khi có thỏa thuận khác.