Trong nhiều trường hợp, người phạm tội được xem xét đến những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Có thể nói, “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” là một trong những trường hợp cụ thể đại diện cho các tình tiết giảm nhẹ này. Vậy pháp luật hiện nay quy định áp dụng tình tiết giảm nhẹ này như thế nào? Sau đây, hãy cùng Luật sư 247 tìm hiểu về vấn đề “Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” qua bài viết sau đây nhé!
Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng
Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó, đây là một trong những căn cứ quan trọng để Tòa án quyết định mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng vẫn còn có nhiều cách hiểu và áp dụng chưa thống nhất trong thực tiễn, có không ít trường hợp do nhận thức hoặc do đánh giá không thống nhất nên khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này không đúng pháp luật, không có tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.
Trên thực tế, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 giải đáp “một số vấn đề nghiệp vụ”, trong đó có quy định khái niệm phạm tội lần đầu, Theo đó, phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu.
Bên cạnh đó, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 01/2018/NQ-HĐTP quy định rằng, phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu.
Hai quy định trên có cách hiểu khác nhau về phạm tội lần đầu. Cụ thể, công văn giải đáp số 01/2017 đã không xem xét các trường hợp được coi là có án tích thuộc trường hợp phạm tội lần đầu là phù hợp.
Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là gì?
Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bên cạnh đó, theo công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC, có hai trường hợp phạm tội được coi là phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đó là (i) phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; và (ii) phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm.
Theo đó, Tòa án chỉ áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” khi có đủ 02 yếu tố “phạm tội lần đầu” và “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Nếu bị cáo phạm tội lần đầu mà không phải thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc ngược lại phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng lần phạm tội này không phải là phạm tội lần đầu thì không áp dụng để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Mối quan hệ giữa phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng
Cùng tìm hiểu rõ hơn về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là gì dưới đây:
Thứ nhất: Thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ này, có Toà án chỉ xác định “bị cáo phạm tội lần đầu” mà không xác định xem bị cáo phạm tội có thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hay không; có Toà án cho rằng bị cáo có nhiều hành vi phạm tội cùng một tội, nhưng nếu tách riêng từng hành vi ra thì chưa cấu thành tội phạm và tội phạm đó là tội phạm ít nghiêm trọng nhưng Toà án lại cho rằng bị cáo phạm tội nhiều lần chứ không phải là phạm tội lần đầu.
Thứ hai: Về trường hợp ít nghiêm trọng, thực tiễn xét xử hầu hết các Toà án chỉ áp dụng đối với tội ít nghiêm trọng tức là tội mà họ bị truy tố, xét xử có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù, rất ít trường hợp Toà án áp dụng đối với những tội nghiêm trọng, chưa có trường hợp nào Toà án áp dụng đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ ba: Tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” chỉ được áp dụng đối với rất ít trường hợp, vì Bộ luật hình sự chỉ có một số tội phạm nhà làm luật quy định “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.
Các tình tiết về giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Bộ luật Hình sự quy định cụ thể 22 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cụ thể như sau:
- Người đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm.
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết
- Phạm tội trong trường hợp vượt mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn
- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức
- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
- Phạm tội do lạc hậu
- Người phạm tội là phụ nữ có thai
- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên
- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng
- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình
- Người phạm tội tự thú
- Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải
- Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm
- Người phạm tội đã lập công chuộc tội
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác
- Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.
Mời bạn xem thêm bài viết
- Quay lén người khác tắm phạm tội gì?
- Quấy rối người khác phạm tội gì?
- Làm phiền người khác bị tội gì?
- Buôn bán hàng cấm là gia phạm tội gì?
- Phạm tội ngoại tình có được tha thứ không?
Thông tin liên hệ
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật sư X về chủ đề “Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Chúng tôi hi vọng rằng bài viết có giúp ích được cho bạn.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ của Luật sư X về mẫu đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, đăng ký bảo hộ logo công ty, trích lục khai tử, các quy định pháp luật về điều kiện thành lập, hợp thức hóa lãnh sự và giải thể công ty cổ phần; thủ tục đăng ký bảo hộ logo… Hãy liên hệ qua số điện thoại: 0833.102.102
- Facebook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
– Phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù;
– Phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm.
Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 01/2018 thì có thể coi là phạm tội lần đầu. Trong trường hợp bị cáo trước đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích. Theo đó, người bị kết án thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 69 và các điểm a, b, c khoản 1 Điều 107 Bộ luật Hình sự. Được coi là không có án tích. Khi những người này phạm tội thì có thể xem xét áp dụng tình tiết phạm tội lần đầu.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự thì tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù. Ví dụ: Tội giết con mới đẻ (Điều 94); tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 95; tội xuất cảnh, nhập cảnh trái phép; tội ở lại nước ngoài hoặc ở Việt Nam trái phép (Điều 274)…