Luật hôn nhân và gia đình là một trong những văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng một cách đa dạng nhất, bởi lĩnh vực bao trùm hầu hết các vấn đề của đời sống xã hội. Tuy nhiên, hôn nhân và gia đình cũng là lĩnh vực khó giải quyết bởi đó là quan hệ dân sự, bên cạnh áp dụng quy định pháp luật thì để giải quyết vấn đề này cần có sự nhìn nhận một cách công tâm về sự công bằng, đạo đức xã hội của Thẩm phán.
Một trong những nguyên tắc của luật hôn nhân và gia đình là hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, giữa người Việt Nam hoặc người nước ngoài; Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con. Vậy cụ thể nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được quy định như nào? Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu qua bài viết dưới đây:
Căn cứ pháp lý
Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được thể hiện qua các quy định sau:
Các hành vi bị cấm
Để bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, tại Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định:
“2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;…”
Đảm bảo tự do ly hôn
Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ cũng đồng thời phải đảm bảo tự do ly hôn. Nếu như không thể bắt buộc người ta kết hôn thì cũng không thể bắt buộc họ tiếp tục chung sống cuộc sống vợ chồng, khi cuộc sống đó hoàn toàn là sự dối trá và hạnh phúc gia đình không thể hàn gắn được. Tất nhiên dự do ly hôn không có nghĩa là ly hôn tùy tiện. Việc ly hôn phải đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước.
Căn cứ ly hôn là những tình tiết (điều kiện) được quy định trong pháp luật và chỉ khi có những tình tiết (điều kiện) đó, Tòa án mới được xử cho ly hôn.
Thuận tình ly hôn
Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được thể hiện cụ thể, khi mà 1 bên vợ hoặc chồng hoặc cả hai đều muốn ly hôn. Họ tự do thể hiện ý chí trong việc không muốn tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân hiện tại mà không chịu sự chi phối, ngăn cản hay tác động của ai. Pháp luật quy định căn cứ ly hôn theo yêu cầu của một bên bao gồm:
“Điều 55. Thuận tình ly hôn
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.”
Như vậy, trong 2 bên đều thuận tình, tự nguyện ly hôn thì việc giải quyết ly hôn khá đơn giản và nhanh chóng.
Ly hôn theo yêu cầu của một bên (Đơn phương ly hôn)
“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi: Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
Có thể bạn quan tâm:
- Đăng ký kết hôn khi không có giấy xác nhận tình trạng hôn nhân?
- Pháp luật quy định như thế nào về hôn nhân đồng giới?
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của Luật sư X về vấn đề “Nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là như nào?“. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên; để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến giải thể công ty, giấy phép bay flycam, xác nhận độc thân, đăng ký nhãn hiệu, hợp pháp hóa lãnh sự, đăng ký mã số thuế cá nhân,…. của luật sư X, hãy liên hệ: 0833102102.
Hoặc qua các kênh sau:
- Facebook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau:
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây; thì bị phạt cảnh cáo; phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm; hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;..
Căn cứ khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, kết hôn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Khi kết hôn, các bên nam nữ phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn được LHNGĐ quy định và phải đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn có thẩm quyền thì việc kết hôn đó mới được công nhận là hợp pháp; và giữa các bên nam nữ mới phát sinh quan hệ vợ chồng trước pháp luật.
Theo quy định hiện hành, việc kết hôn chỉ được công nhận giữa nam; và nữ nếu hai người đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn; và thực hiện tại cơ quan có thẩm quyền. Khoản 2 Điều 8 Luật HN&GĐ quy định: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính“.