Chào Luật sư 247. Hiện tại tôi đang rất rối, không biết sao là đúng. Mong được Luật sư giải đáp thắc mắc cho tôi: Tôi tham gia giao thông trên đường và thấy người bị tai nạn giao thông, máu chảy nhiều, nhưng tôi sợ liên lụy và sợ bị lừa nên không cứu giúp, vậy tôi có bị phạt gì không? Nếu có thì quy định pháp luật về hành vi Không cứu giúp người bị tai nạn giao thông bị xử lý như thế nào? Tôi xin chân thành cảm ơn!
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Luật sư 247. Tại bài viết dưới đây chúng tôi sẽ giải đáp thắc mắc cho bạn. Hi vọng bài viết mang lại nhiều điều bổ ích tới bạn đọc.
Căn cứ pháp lý
Luật giao thông thường bộ 2008.
Không cứu giúp người bị tai nạn giao thông bị xử lý như thế nào?
Căn cứ theo khoản 2, khoản 3 Điều 38 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định như sau:
“2. Những người có mặt tại nơi xảy ra vụ tai nạn có trách nhiệm sau đây:
+ Bảo vệ hiện trường;
+ Giúp đỡ, cứu chữa kịp thời người bị nạn;
+ Báo tin ngay cho cơ quan công an, y tế hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất;
+ Bảo vệ tài sản của người bị nạn;
+ Cung cấp thông tin xác thực về vụ tai nạn theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
3. Người điều khiển phương tiện khác khi đi qua nơi xảy ra vụ tai nạn có trách nhiệm chở người bị nạn đi cấp cứu. Các xe được quyền ưu tiên, xe chở người được hưởng quyền ưu đãi.”.
Bên cạnh đó, theo khoản 18 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định hành vi “Khi có điều kiện mà cố ý không cứu giúp người bị tai nạn giao thông” là một trong những hành vi bị nghiêm cấm.
Từ những quy định trên, hành vi thấy người bị tai nạn giao thông rồi bỏ đi mà không giúp đỡ khi có yêu cầu là vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ.
Mức phạt đối với hành vi không giúp đỡ người bị tai nạn khi có yêu cầu được quy định tại điểm a khoản 7 Điều 11 Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt như sau: “Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với tổ chức thực hiện hành vi không cứu giúp người bị tai nạn giao thông khi có yêu cầu”.
Ngoài ra, nếu đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm thì hành vi trên cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 132. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng
1, Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2, Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Người không cứu giúp là người đã vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm;
b) Người không cứu giúp là người mà theo pháp luật hay nghề nghiệp có nghĩa vụ phải cứu giúp.
3, Phạm tội dẫn đến hậu quả 02 người trở lên chết, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
4, Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Như tình huống trên, chúng tôi nhận thấy bạn dù có điều kiện nhưng lại không cứu giúp người, tuy nhiên, với điều luật này thì hậu quả chết người là bắt buộc, việc bạn không cứu giúp là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến người đó chết, nếu bạn cứu người đó thì người đó sẽ sống, nhưng vì bạn không cứu nên dẫn đến cái chết của người đó. Như vậy, phải xác định người đó đã chết hay chưa và việc bạn không cứu giúp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc đó hay không thì bạn mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Người lái xe gây tai nạn chết người có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?
Khoản 72 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ sẽ bị xử phạt như sau:
“Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;
c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Làm chết 02 người;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”.
Do đó, người lái xe gây tai nạn chết người do có các hành vi vi phạm về an toàn giao thông đường bộ thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Tuy nhiên tùy theo mức độ của hành vi mà có các mức xử phạt và truy cứu trách nhiệm hình sự khác nhau. Có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Hoặc phạt cải tạo không giam giữ từ 01 năm đến 03 năm, bị phạt tù từ 03 tháng đến 15 năm.
Mời bạn xem thêm bài viết
- Thời gian học đào tạo nâng cấp giấy phép lái xe từ B1 lên B2 bao lâu?
- Có được đổi biển số xe máy từ 4 chữ số thành 5 chữ số không?
- 50 tuổi có được làm thừa phát lại hay không?
- Công chứng viên có được tự mình công chứng di chúc của mình không?
Thông tin liên hệ
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề “Không cứu giúp người bị tai nạn giao thông bị xử lý như thế nào?”. Mọi thắc mắc về thủ tục pháp lý có liên quan như điều kiện cấp phép bay flycam,tìm hiểu về thủ tục sang tên nhà đất, thủ tục cấp hộ chiếu tại Việt Nam, dịch vụ công chứng tại nhà của chúng tôi… Quý khách vui lòng liên hệ Luật Sư 247 để được hỗ trợ, giải đáp.
Liên hệ hotline: 0833.102.102.
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Theo quy định bộ luật hình sự 2015 nếu người thực hiện hành vi không có điều kiện cứu giúp người bị nạn, người bị tai nạn không chết thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Căn cứ quy định của pháp luật một người thực hiện hành vi không cứu giúp người tại nạn sẽ bị xử lý hình sự khi thỏa mãn các yếu tố sau:
Người phạm tội thấy người bị tai nạn đang trong tình trạng có thể dẫn đến chết người nhưng đã không cứu giúp.
Người phạm tội phải có điều kiện để thực hiện cứu giúp nạn nhân, ngăn chặn hậu quả chết người xảy ra.
Hậu quả chết người phải là hệ quả tất yếu của hành vi không cứu giúp người bị nạn. Nếu hậu quả người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng không chết thì người không cứu giúp sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp không thảo mãn các dấu hiệu trên thì người không thực hiện hành vi cứu giúp người sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Khoản 7 điều 11 Nghị định 100 cá nhân, tổ chức khi không thực hiện cứu giúp người tai nạn giao thông theo yêu cầu bị xử lý như sau:
Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với cá nhân, từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với tổ chức không cứu giúp người bị tai nạn giao thông khi có yêu cầu