Hình phạt tội bức tử theo quy định pháp luật Việt Nam

31/12/2021
Chủ thể của vi phạm pháp luật là đối tượng nào?
780
Views

Bức tử là làm người khác phải tự sát do đã có hành vi có lỗi đối với họ. Bức tử là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của người khác, luật hình sự Việt Nam luôn coi hành vi này là tội phạm. Vậy hình phạt đối với tội bức tử theo quy định pháp luật Việt Nam là như thế nào? Để tìm hiểu rõ hơn về nội dung này, Luật sư 247 mời bạn đọc tham khảo bài viết dưới đây

Căn cứ pháp lý

Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

Bức tử là gì?

Bức tử là làm người khác phải tự sát do đã có hành vi có lỗi đối với họ. Bức tử là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng của người khác.

Hình phạt tội bức tử theo quy định pháp luật Việt Nam

Theo quy định tại Điều 130 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, người phạm tội sẽ chỉ phải chịu hình phạt chính là phạt tù có thời hạn.

“1. Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Đối với 02 người trở lên;

b) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai.”

Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm

Nếu là người đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người đó tự sát, thì sẽ bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm

Trường hợp phạm tội bức tử, thuộc các trường hợp sau đây sẽ bị áp dụng hình phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

  • Đối với 02 người trở lên: Người phạm tội có hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục từ 02 người trở lên có mối quan hệ lệ thuộc vào mình.
  • Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai: Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội đối với phụ nữ có thai. Đối với trường hợp này bắt buộc người phạm tội phải biết rõ nạn nhân đang mang thai. 

Như vậy, hình phạt tù ở mức cao hơn sẽ bị áp dụng tuỳ thuộc vào số nạn nhân hoặc nạn nhân là người được pháp luật đặc biệt bảo vệ.

Khi quyết định hình phạt cho tội bức tử, Tòa án ngoài việc căn cứ vào số người chết mà còn cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Cấu thành tội phạm của tội bức tử

Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Người nào đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình. Như vậy, hành vi khách quan được xác định là đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người khác có sự lệ thuộc vào mình.

Cụ thể như sau:

Hành vi đối xử tàn ác: như thường xuyên đánh đập, bắt nhịn ăn, giam cầm, bắt lao động nặng nhọc và không cho ăn uống… làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể chất, suy sụp về tinh thần nhưng chưa đến mức gây thương tích hoặc gây tổn hại đáng kể cho sức khoẻ của nạn nhân.

Hành vi thường xuyên ức hiếp: Thể hiện qua việc xử sự không công bằng, xâm phạm đến các quyền, lợi ích hợp pháp của nạn nhân… hành vi này thường kéo dài và lặp đi lặp lại. Thời gian để được tính là thường xuyên ức hiếp cụ thể là bao lâu thì luật không quy định. Nhưng dựa vào sự lặp đi lặp lại nhiều lần, kéo dài thì sẽ được xác định là thường xuyên.

Hành vi ngược đãi: Thể hiện qua việc đối xử tồi tệ với nạn nhân về các mặt ăn, mặc, ở và các sinh hoạt hàng ngày khác. Trong khi rõ ràng có điều kiện nhưng vẫn cố tình thực hiện việc đối xử ngược đãi với người lệ thuộc vào mình.

Hành vi làm nhục người lệ thuộc vào mình: Được hiểu là hành vi xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của nạn nhân như chửi bới thậm tệ, bôi nhọ danh dự, nhạo báng,…

Hậu quả

Hậu quả của những hành vi khách quan nên trên là dẫn đến nạn nhân tũng quẫn, suy nghĩ tiêu cực và có hành vi tự sát, tự kết liễu mạng sống của mình.

Hậu quả chết người có hay không không phải là yếu tố quyết định cấu thành tội phạm hay không. Chỉ cần nạn nhân có hành vi kết liễu sinh mạng của mình vì những hành vi khách quan nên trên thì tội phạm hoàn thành.

Mối quan hệ nhân quả

Hậu quả là nạn nhân tư sát phải bắt nguồn từ những hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi, làm nhục người phụ thuộc vào mình. Nếu như nguyên nhân tự sát không phải là do những hành vi trên thì không cấu thành tội phạm này.

Mặt chủ quan của tội phạm

Yếu tố lỗi

Người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý (lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp).

Mục đích

Mục đích của người phạm tội khá phong phú. Tuy nhiên khiến cho nạn nhân đau khổ, hành hạ cả về thể xác và tinh thần của nạn nhân.

Chủ thể của tội phạm

Chủ thể là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Ngoài ra chủ thể này còn là người mà nạn nhân có mối quan hệ lệ thuộc nhất định (có thể coi là chủ thể đặc biệt).

Khách thể của tội phạm

Ngoài việc xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của nạn nhân, hành vi nêu trên còn (gián tiếp) xâm phạm đến tính mạng của người khác.

Người bị hại của tội bức tử?

Người bị hại theo quy định tại Bộ luật hình sự được hiểu là “Người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra.” Người bị hại trong tội bức tử được hiểu là người thường xuyên bị đối xử tàn ác, bị ức hiếp, bị ngược đãi đến mức phải tự sát. Để có thể xác định ai được xem là người bị hại cần phải dựa trên những căn cứ sau:

  • Người bị hại là người lệ thuộc vào người phạm tội:

Mối quan hệ lệ thuộc giữa nạn nhân và người phạm tội là yếu tố bắt buộc để xác định một người có phải là nạn nhân của tội bức tử hay không. Người bị hại trong tội bức tử lệ thuộc vào người phạm tội về mặt kinh tế; hoặc bị ràng buộc bởi quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, quan hệ công tác, thầy trò hoặc quan hệ tôn giáo, tín ngưỡng.

  • Người bị hại trong tội bức tử tự tước đoạt tính mạng của mình.

Điểm cần chú ý về đối tượng người bị hại trong tội bức tử là người này bằng chính hành vi của mình tự tước đoạt đi mạng sống của mình. Việc tự sát có thể được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau như thắt cổ, nhảy sông, uống thuốc độc… Nếu nạn nhân tuy muốn chết nhưng lại nhờ người khác giúp mình thì lại là người bị hại của tội “ xúi giục hoặc giúp người khác tự sát” chứ không phải là “tội bức tử”.

  • Nguyên nhân khiến người bị hại tự sát là so hành vi ngược đãi của người phạm tội:

Những hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người bị hại phải là nguyên nhân dẫn đến việc người bị hại nảy sinh ý định tự sát và thực hiện hành động tự sát. Chỉ cần nạn nhân có hành vi tự sát là tội phạm hoàn thành, còn việc nạn nhân chết hay được cứu sống chỉ có ý nghĩa xem xét khi quyết định hình phạt.

Mời bạn xem thêm bài viết

Trên đây là tư vấn của Luật sư 247 về “Hình phạt tội bức tử theo quy định pháp luật Việt Nam. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc; cuộc sống. Nếu có thắc mắc và cần nhận thêm sự tư vấn; giúp đỡ của luật sư X; hãy liên hệ 0833.102.102

Câu hỏi thường gặp

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là gì?

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Ví dụ về tội bức tử?

Chị T liên tục bị bỏ đói, bỏ rét, gây ra sự uất ức, bế tắc. Ngoài ra, Chị còn bị mắng nhiếc, chửi rủa, mạt sát… gây tổn thương nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm dẫn đến uất ức và muốn tự tử.

5/5 - (1 bình chọn)
Chuyên mục:
Hình sự

Comments are closed.