Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về phạm vi đại diện trong giao dịch dân sự. Theo quy định, người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch trong phạm vi quy định. Vậy, quy định về phạm vi đại diện trong giao dịch dân sự tại Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 như thế nào? Hãy theo dõi bài viết dưới đây của Luật sư 247 nhé.
Căn cứ pháp lý
Nội dung Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015
“Điều 141. Phạm vi đại diện
1. Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây:
a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;
b) Điều lệ của pháp nhân;
c) Nội dung ủy quyền;
d) Quy định khác của pháp luật.
2. Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình.”
Phân tích Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015
Thứ nhất, người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện như sau:
Một là, theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Tùy vào quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà người đại diện thực hiện hành vi đại đại diện trong phạm vi mà pháp luật cho phép. Ví dụ: Tòa án chỉ định A làm người đại diện quản lý tài sản cho B, thì phạm vi đại diện của A giới hạn trong việc quản lý tài sản của B.
Hai là, theo điều lệ pháp nhân. Pháp nhân ghi nhận phạm vi của đại diện trong điều lệ công ty, theo đó người đại diện chỉ được thực hiện những giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện mà điều lệ đã quy định.
Ba là, theo nội dung ủy quyền. Đối với trường hợp đại diện theo ủy quyền, phạm vi đại diện được các bên thỏa thuận và ghi nhận trong văn bản ủy quyền. Người đại diện chỉ được thực hiện hành vi pháp lý trong khuôn khổ mà văn bản ủy quyền đã quy định. Ví dụ trong trường hợp A ủy quyền cho B xác lập, thực hiện hợp đồng với C; khi đó phạm vi đại diện của B giới hạn trong việc ký kết, thực hiện hợp đồng với C.
Bốn là, theo quy định khác của pháp luật.
Thứ hai, trường hợp không xác định được phạm vi đại diện. Khi đó người đại diện được thực hiện mọi giao dịch vì lợi ích của người được đại diện. Trường hợp này xảy ra khi ngươi đại diện là người đại diện theo pháp luật của người được đại diện, như: cha mẹ đại diện cho con chưa thành niên,…
Thứ ba, một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó. Quy định nhằm đảm bảo quyền lợi cho người được đại diện, tránh trường hợp người đại diện thực hiện hành vi đại diện vì lợi ích của mình, gây bất lợi cho người được đại diện.
Thứ tư, người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về thẩm quyền đại diện củ mình. Mục đích của quy định này là bảo vệ quyền lợi cho bên thứ ba trong giao dịch, trong trường hợp bên đại diện tham gia xác, thực hiện giao dịch không đúng thẩm quyền, giao dịch đó có thể bị vô hiệu, gây thiệt hại cho người thứ ba.
Điểm mới của Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015
Theo khoản 3 Điều 141 BLDS 2015 thì phạm vi đại diện được mở rộng hơn so với quy định tại BLDS 2005, theo đó “một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 137 BLDS 2015 thì “một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật này”. Việc quy định cho phép một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật của BLDS 2015 đã đảm bảo sự tương thích với quy định của Luật doanh nghiệp 2014 trong việc quy định công ty TNHH và công ty cổ phần “có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật.” Sự tương thích giữa quy định của luật chung và luật chuyên ngành trong trường hợp này đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể thực hiện quyền của mình một cách thuận lợi hơn, cho phép các đại diện theo pháp luật của pháp nhân khi tham gia vào một giao dịch dân sự sẽ dễ dàng hơn khi xác định quyền đại diện và phạm vi đại diện của mình, từ đó bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của các bên.
BLDS 2015 cũng bổ sung điều khoản loại trừ trong trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp: Người được đại diện đồng ý; Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện (khoản 1 Điều 143 BLDS 2015).
So sánh Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 với quy định cũ
Điều 144 BLDS 2005 quy định về phạm vi đại diện như sau:
“1. Người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Phạm vi đại diện theo uỷ quyền được xác lập theo sự uỷ quyền.
- Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.
- Người đại diện phải thông báo cho người thứ ba trong giao dịch dân sự biết về phạm vi đại diện của mình.
- Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Có thể thấy việc xác định phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 144 BLDS 2005 là chưa rõ ràng, có sự trùng lắp giữa quy định về phạm vi đại diện với căn cứ xác lập quan hệ đại diện và điều kiện làm phát sinh hiệu lực pháp lý của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập với người thứ ba.
Khắc phục hạn chế của Điều 144 BLDS 2005, Điều 141 BLDS 2015 quy định về phạm vi đại diện như sau:
“1. Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây:
- a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;
- b) Điều lệ của pháp nhân;
- c) Nội dung ủy quyền;
- d) Quy định khác của pháp luật.
- Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình.”
Có thể thấy quy định của Điều 144 BLDS 2005 là rất rõ ràng, dễ hiểu; nội dung điều luật thống nhất với tiêu đề của điều luật. Theo đó, Điều 144 BLDS 2015 nêu rất rõ căn cứ để xác định phạm vi ủy quyền tương ứng với từng hình thức đại diện. Đối với đại diện theo pháp luật, phạm vi ủy quyền được xác định căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc xác định theo điều lệ của pháp nhân; đối với đại diện theo ủy quyền, phạm vi ủy quyền xác định căn cứ vào nội dung ủy quyền.
Mời bạn xem thêm bài viết
- Quy Định Về Người Đại Diện Theo Pháp Luật Của Công Ty
- Mẫu danh sách người đại diện theo ủy quyền mới năm 2022
- Thủ tục thay đổi người đại diện theo pháp luật
Thông tin liên hệ
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề “Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 có nội dung gì nổi bật?”. Mọi thắc mắc về thủ tục pháp lý có liên quan như: điều kiện Thành lập công ty, Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, Đăng ký bảo hộ thương hiệu, Đăng ký bảo hộ logo, Giải thể công ty, Tạm ngừng kinh doanh, Mã số thuế cá nhân, Giấy phép bay flycam, Tra cứu thông tin quy hoạch, Xác nhận độc thân, Xác nhận tình trạng hôn nhân, Hợp thức hóa lãnh sự trọn gói giá rẻ… Quý khách vui lòng liên hệ Luật Sư 247 qua hotline: 0833102102 để được hỗ trợ, giải đáp.
Câu hỏi thường gặp
Theo Khoản 3 Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015 thì một cá nhân không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình.
Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.
Với vợ chồng, việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung được xác định theo quy định về đại diện của pháp luật dân sự và quy định của Luật Hôn nhân và gia đình cùng với các luật khác có liên quan. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ có liên quan. Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật Hôn nhân và gia đình thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi.